[Tiểu thuyết] Án Sát Tầm Hồ – Kỳ 10: Jardin de Fleurs

[Tiểu thuyết] Án Sát Tầm Hồ – Kỳ 10: Jardin de Fleurs

Sự thật về loài cầm thú trong rừng sao được phơi bày. Hành trình của Dương Thiên Cửu lại tiếp tục, tại sao cả năm ông chủ ở bến tàu đều đồng loạt mất mạng trong đêm?

Màn đêm rủ xuống khu rừng sao như muốn che đi thứ âm thanh “hừ hừ” kỳ dị. Tiếng gọi con của bà Gustave vẫn vang vọng, đánh thức tất cả muông thú. Chúng cũng cật lực gào lên như đang trách mắng người phụ nữ tội nghiệp đang phá giấc ngủ của mình. 

Bà Gustave đạp cây, rẽ rừng, chạy thục mạng. Không biết do linh tính của người mẹ hay sao mà bà đã đến rất gần nhà thổ chỗ Vườn Hoa, chỉ có điều bà không biết nó nằm chính xác chỗ nào. Bà đi chậm lại, lấy tay chập vào như cái loa rồi liên tục gọi:

– Daisy! Daisy!

Chợt bà la lên một tiếng đau đớn, nhìn xuống mới biết mình vừa dẫm phải bụi gai. Bà chỉ nhăn mặt cho qua, định ngửa đầu gọi tiếp thì một cánh tay lực lưỡng đã chụp lấy cổ họng bà. Bà Gustave cố khạc ra những tiếng kêu nhưng vô ích, đành khua tay múa chân, vô tình chạm phải một thân thể lực lưỡng khác đang tiến đến, so với chúng thì bà chỉ nhỏ bằng phân nửa.

Một tên nắm chân, một tên lôi đầu, chúng kéo bà về phía Khu Vườn nhưng không phải vào khu nhà lồng mà tiến về phía nhà kho bọn Phillipe nhìn thấy hôm trước. Một tên thụi hai cái vào bắp đùi bà Gustave, sức lực đủ mạnh để khiến bà liệt tạm thời. Đoạn, nó tiến về phía một cỗ máy khổng lồ trong khi tên kia lôi bà lên một bậc thang theo hướng ngược lại, nhìn kĩ liền nhận ra cỗ máy khổng lồ này là một cái cối xay lúa đã được “cải tiến”. Cối xay lúa bình thường chỉ to bằng đứa con nít, nhưng cái cối này có kích thước phải gấp mười lần. Cấu tạo cối xay gồm cối cha và cối con. Cối cha nằm dưới làm nhiệm vụ chứa sản phẩm cần chế biến. Cối con gồm hàng trăm cục u kim loại, làm nhiệm vụ nghiền nát sản phẩm. Chân cối là bốn viên đá tảng chu vi năm sáu mét. Còn chàng xay là loại một thân gỗ sao kết thành hình chữ T, bên trên dùng dây xích để treo.

Cối xay lúa, đúng như tên của nó, dùng để giã trấu ra khỏi gạo, nhưng nhìn vào thằng đàn ông lực lưỡng đang cõng bà Gustave trên vai rồi đi lên từng bậc cầu thang thì biết chuyện gì sắp xảy ra. Bà Gustave chỉ có cánh tay là còn hoạt động được, bà liên tục dùng móng tay cấu vào lưng thằng đàn ông. Móng tay người đâu phải dạng mềm mại gì, lực đủ mạnh có thể gây trọng thương chứ chẳng chơi. Tuy nhiên, bà Gustave có cố cách mấy cũng chẳng xuyên qua được lớp da cứng như kim loại của thằng ngợm này. Bà chỉ còn biết thét gào tên con gái vài lần, trước khi thằng đàn ông nhẹ nhàng ném bà vào cái cối cha. Thằng còn lại vừa đặt tay lên chàng xay thì cối con từ phía trên đã ập xuống, đè bà Gustav nát bét. Nó vận lực xay, tiếng xương vỡ vụn vang lên khắp nhà kho, kèm theo đó là tiếng động “hừ hừ” phát ra từ va chạm của cối cha và cối con. Cái bệ xay lúa liên tục xả xuống nào là thịt, lục phủ ngũ tạng. Tiếng gió rít trồi ra từ phía dưới. Bên trên, sợi xích sắt oằn mình, va đập liên tục vào trần nhà kho.

Ở bụi cây bên ngoài, Cửu đang thở hồng hộc, y đuổi theo bà Gustave từ nãy đến giờ nhưng do trời tối cộng với chưa rành đường nên lỡ để lạc mất, mãi đến giờ mới đuổi kịp, khi đến nơi thì mọi sự đã rồi. Cửu nghĩ thầm, nếu cứu được bà Gustave thì tốt quá, sau này bà ta mới nhận được sự trừng phạt thích đáng. Chết luôn như thế này thực khiến y tức quá mà. Cửu bực tức bóp chặt nhánh cây làm nó cong lên vỡ vụn, đoạn rẽ rừng tiến thẳng về phía cái cối xay “lúa”. 

Hai thằng đàn ông đang cặm cụi đổ “mẻ gạo vừa xay” sang một cái thúng, thấy Cửu thân hình nhỏ bé lù lù xuất hiện thì vươn mình đứng dậy thủ thế. Cửu liếc mắt nhìn, đúng như những dự định trong đầu y, hai thằng đàn ông này đều có những cục u trên trán, khuôn mặt bặm trợn. Chúng cất tiếng nhưng giọng bập bẹ như đứa con nít mới tập nói, luôn miệng rủa Cửu là tiều phu thì đừng dính vô chuyện này. Chúng gọi Cửu là “người gom củi”.

Nói về suy luận của Cửu. Lần trước đi một vòng trong rừng sao, Cửu có có phát hiện ra một chi tiết khó hiểu: ngoài những cột mốc của bọn Phillipe, Paul và Dominic để lại, Cửu còn phát hiện ra những dấu cào. Nếu là của loài thú vật thì không thể nào năm đường cào đều nhau như vậy! Hơn nữa, xung quanh vết cào còn có xác của một bầy khỉ, thân thể bị xé dã man nhưng không bị ăn thịt, duy chỉ bộ óc bị móc ra. Cửu nghĩ trong bụng, chỉ có vài bộ tộc sống chốn núi rừng ở Nam Kỳ hành động như thế này. Khi thấy những cục u trên trán thì chắc mẩm đây là Lang Dã Nhân của u linh ở tỉnh Long Xuyên (nay là Bảy Núi, An Giang).

Tộc Lang Dã Nhân có một quá khứ đau buồn. Chuyện là năm Giáp Thìn có một trận bão kinh thiên động địa, giống người Lang Dã vốn sợ nước lại gặp mưa lớn, khác nào cá bị bỏ trên bờ. Xúi quẩy thay, lúc đó là mùa đi mỏ nên cả đám đàn ông trai tráng không ai còn ở làng. Khi mưa bão kéo về, họ nấp dưới hầm mà sống sót, riêng cả một ngôi làng Lang Dã thì đã chết sạch. 

Từng người, từng người, thoạt đầu là những cao niên, sau đó là những trai tráng bị bệnh dịch. Họ chết dần, chết dần. Vì không có phụ nữ nên tộc này đứng trên nguy cơ tuyệt tông. Lúc đó, thực dân Pháp sang xâm lược nước Nam, phát hiện ra thể trạng của tộc Lang Dã Nhân có thể dùng để đào tạo một đội quân bất khả chiến bại, liền cử một số lượng lớn nhà khoa học sang nghiên cứu. Họ đưa ra quyết định phối giống giữa Lang Dã và con người, tìm những đứa bé thích hợp cho đến khi gen trội của tộc Lang Dã hoàn toàn bộc phát, lúc đó sẽ bắt đầu quá trình liên tục “sản xuất”.

Tất cả những dữ kiện mấy ngày qua, khi Cửu chắp nối lại mới biết, giống “thực vật” sinh sống ở châu Á mà có thể đem về châu Âu là dự án này, có thể nói Cửu lúc này đang khá là điên máu. Nhưng Cửu vốn là người có trước có sau, tộc Lang Dã Nhân tiếng người còn chưa rành, tự dưng có người đề xuất tìm cách đẻ con nối dõi, lại được cho ăn, cho ngủ, cho… thỏa mãn thân xác thì chỉ biết nghe theo mà làm, cho nên Cửu định tội họ cơ bản chỉ là loài bù nhìn. Nghĩ vậy Cửu mới lên tiếng, nói rằng quay đầu là bờ, nếu giờ bỏ chạy có lẽ Cửu sẽ không đuổi theo.

Hai thằng đàn ông tộc Lang Dã nghe vậy, không biết trời cao là gì, tru lên những tiếng vang trời. Phía sau Cửu, lần lượt xuất hiện thêm bốn thằng đàn ông khác. Thân thể thằng nào cũng vai u thịt bắp, cao gần ba mét. Cửu thấy vậy liền thở dài, nhẹ nhàng móc trong túi ra kim lệnh Án Sát. Lũ Lang Dã mới đầu còn tỏ ra thù nghịch nhưng khi thấy kim lệnh liền biết Cửu là ai, lập tức quỳ rạp xuống đất mà van xin Cửu tha mạng. Tới lúc này Cửu đã chẳng cần quan tâm nữa, đã cho cơ hội mà không chớp lấy thì chỉ trách người chứ đừng trách ta. Cửu cắm kim lệnh xuống đất, lấy ra năm quẻ tre rồi viết vài dòng chữ lên đó, đoạn dán lên trán của từng tên đàn ông tộc Lang Dã. Bọn chúng biết số phận mình nên cũng chẳng thiết chống cự. Khi Cửu quay lưng đi, nhất loạt năm tên đàn ông này sùi bọt mép, lăn ra chết tươi.

Cửu tiến về phía nhà thổ, khi đi ra thì ánh mắt y đã đanh lại trông đáng sợ vô cùng. Y băng rừng tiến về làng, nhắm thẳng hướng nhà của Gustave. Khi Gustave ra mở cửa cho Cửu thì tóc ông đã rối bù, ánh mắt tiều tuỵ do thiếu ngủ. Ông mời Cửu ngồi, bản thân thì ôm đầu thụp xuống cạnh bên. Cửu lạnh lùng nói:

Chắc ông biết số phận của bà nhà rồi.

Im lặng.

Chợt Cửu nghe tiếng nói từ phía cầu thang: 

– Án Quan, Án Quan ơi! Trong rừng, trong rừng có cái nhà thổ. Người ta bị bắt nhốt trong đó. Án Quan sang gông cổ ông Albert đi, ông ta chủ mưu đó! Cha, cha nói với Án Quan đi, đừng để mẹ cũng…

Phillipe nói đến đó thì nước mắt đã đầm đìa, ông Gustave vẫn gục mặt vào đôi bàn tay, không nói không rằng. Phillipe chạy xuống lay vai Cửu, nhưng y chỉ ném ánh mắt về xa xăm, choàng tay trước ngực. Trong ánh mắt đó vẫn hiện lên sự căm phẫn, ít khi thấy Cửu có vẻ mặt như vậy. Ông Gustave thấy con mình vẫn chưa chịu dừng, liền quát lớn. Lúc này Phillipe mới lủi thủi đi lên phòng, vẫn nghe giọng cậu bé chê cha mình là đồ hèn.

Cửu đổi tư thế ngồi, y choàng hai tay gác lên lưng ghế bành rồi nói, giọng y không chút cảm xúc: 

– Ông đã quan hệ với con gái mình chưa, ông Gustave?

Đến lúc này thì ông biết Cửu đã hiểu hết mọi chuyện, bèn vội nói: 

– Án Quan, chỉ có lũ Lang Dã thôi. Tôi…

Cửu giơ tay bảo ông ngừng nói, đoạn tiến về phía bên kia căn phòng, rót hai ly rượu Tây, một ly y đưa cho ông Gustave, một ly tự mình ực hết sạch. Cửu nói: 

– Trời cao có mắt, muốn thoát khỏi lưới trời sao? Thật là nực cười! Người Pháp hay người Nam, ông trời chẳng cần biết.

Nói xong Cửu thả ly rượu xuống đất, nhìn chiếc ly thủy tinh vỡ tan rồi chầm chậm tiến ra cửa đi về.

Ông Gustave nghe vậy bỗng nổi trận lôi đình. Ong chẳng còn nói tiếng Việt được nữa, liên tục chỉ trỏ về phía Cửu rồi gào lên bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Đại ý là, Cửu chẳng thể nào hiểu được tâm lý của một người cha từng ngày đều biết rõ con gái mình đang bị những thằng nửa người nửa thú làm ô uế, chỉ có ông là người duy nhất có thể giúp con gái mình hưởng chút thời gian thoải mái. Ông có lỡ làm thêm vài lần âu cũng chỉ là muốn Daisy quên đi sự kinh tởm của bọn Lang Dã Nhân mà thôi.

Ông đâu biết rằng, Cửu là Án Sát Tiên Sinh, dăm ba cái ngôn ngữ này đối với Cửu đâu là gì. Gustave chỉ biết trợn mắt bẽ bàng khi nghe Cửu nói vọng về lúc đóng cửa: 

– Au revoir, monsieur Gustave!

Gustav gục xuống sàn nhà, khóc như mưa.

Khuôn viên nhà lão thị trưởng Albert ồn ào đến lạ. Hàng xóm nghe được nhưng chẳng ai thèm đến xem đó là gì. Albert đã gào thét được hơn mười tiếng đồng hồ qua. Bà Albert đang ngồi trên giường cạnh bên cậu bé Paul. Thằng bé bị dộng cho gãy cánh mũi. Ban đầu tưởng vết thương không nặng, nhưng bởi kẻ ra đòn là Lang Dã Nhân nên tình hình khá nghiêm trọng, phải băng kín cả lỗ mũi, phút chốc Paul lại nôn oẹ, thở cũng chẳng dễ dàng. Ban đầu, lúc phát hiện ra dấu hiệu nhà thổ bị đột nhập, ông Albert biết con mình có trong đó nên đã dặn dò đám đàn ông Lang Dã nhắm vào Phillipe thôi. Thế nhưng do bản tính Lang Dã khù khờ, dẫn đến đánh lộn người. Ông Albert nhìn tình cảnh của Paul thêm lần nữa rồi ném đôi tay lên trời, miệng trách mắng: 

– Tao biết tính tụi nó nên đã dặn kỹ càng vậy mà. Khốn kiếp! Sáng mai tao sẽ tính sổ!

Paul nghe đến đó thì tiếp tục nôn oẹ. Trong thâm tâm, bà Albert biết rõ lý do con mình có phản ứng như vậy. Không phải vì vết thương, mà là do nó đã biết hết mọi chuyện. Nó buồn nôn bởi cảm giác kinh tởm những việc làm của cha mẹ mình. Bà vuốt lưng Paul nhưng nó đã nhanh chóng gạt tay bà ra, ánh mắt đờ đẫn như người mất hồn. Ông Albert thấy vậy liền giải trình:

– Con trai, con phải hiểu cho cha mẹ. Chúng ta là nhà khoa học thì phải biết hy sinh!

Chợt một giọng nói vang lên từ phía cửa, là Cửu:

– Khá khen cho ông Albert, dám lấy danh nghĩa cao cả của khoa học.

Ông Albert vừa thấy Cửu liền nổi máu điên, ra sức đẩy Cửu ra sân trước, nói y là người Nam đừng dính vô chuyện này, sẽ rước họa vào thân. Chỉ nghe Cửu cười và bảo y ghé ngang để xác định vài chuyện, mai sẽ rời đi, đoạn nhìn về phía Paul rồi thở dài, biến mất trong đêm tối.

Rừng sao, sáng hôm sau có đoàn tiều phu đi ngang. Chẳng hiểu trời xui đất khiến như thế nào lại lạc vào Vườn Hoa, họ phát hiện ra cái nhà thổ đó. Ở chỗ hai cánh cửa sắt có những mảnh tre viết chi chít những dòng tiếng Hán, đại ý là: “Án Sát thay trời hành đạo, lệnh cho bá tánh mau mau giải cứu phụ nữ, đem về dưỡng bệnh, bằng không sẽ không tránh được lưới trời”. Nhóm tiều phu nghe xong liền tá hoả, không dám trái lời, cả đoàn truy hô, cuối cùng sắp xếp y sĩ, chỗ ở, đồ ăn thức uống cho toàn bộ người bị giam trong nhà thổ. Có người nói không lẽ cô gái đánh xe cũng có trong này, nhưng kiếm đỏ mắt cũng không thấy.

Ngôi làng của nhà khoa học hôm sau nghe tiếng hét vang trời của hai cậu thanh niên, chúng chạy sang làng bên cạnh, người dính đầy máu. Người dân kéo về xem thì thấy toàn bộ nhân khẩu trong các hộ nhà khoa học đang liên tục ói ra nội tạng của mình rồi ngồi xuống ăn lại như lũ thú hoang, ăn xong thì lăn ra chết tươi. Bá tánh như biết được sự tình, tìm kiếm xung quanh. Quả thật trên cột nhà của thị trưởng Albert có tờ giấy viết bằng mực đỏ, trên đó ghi: “Án Sát Thập Hình, làm người mà không có tính người, đày cho suốt đời phải ăn lục phủ ngũ tạng. Ai tìm được tờ lệnh này, lập tức đem chôn bọn tội phạm dưới một mái nhà tranh trong rừng sâu, cả đời không được bén mảng tới“.

Người dân đọc xong liền thất kinh. Án Sát Thập Hình là hình phạt cao nhất, lũ chịu án sau một trăm ngày sẽ chui mồ sống dậy. Hằng ngày, chúng phải ói lục phủ ngũ tạng ra rồi ăn vào cổ họng, ngạt thở mà chết, mãi mãi không bao giờ được yên ổn.

Phía con đường ra khỏi làng, trên chiếc xe bò hôm trước, Cửu đang ngồi đánh xe. Phía sau chỗ đụn rơm là Thi Bình đang nằm, trông cô mệt mỏi nhưng không có gì nguy hiểm đến tính mạng. Tỉnh dậy lúc sáng muộn, ánh sáng năm sào chiếu vào mắt, cô dụi dụi rồi hỏi: 

– Anh bạn đi lạc, sao mà… Hôm trước tôi còn…

Cửu đã kịp chen ngang, y kể lại mọi chuyện cho Thi Bình. Cô trầm ngâm rồi hỏi giờ mình đi đâu. Cửu bảo sẽ gửi cô cho một người bạn. Thi Bình mới hỏi vì sao y lại cứu cô. Cửu chỉ lạnh lùng bảo: 

– Vì đứa nhỏ trong bụng cô, nó là đứa cuối cùng của bộ tộc. Nhớ chăm sóc cho kỹ, đừng để tôi phải đến nơi đó tìm cô!

Thi Bình hỏi nơi đó là nơi nào, chỉ nghe Cửu cười bảo cô hãy nghỉ ngơi đi.

Cửu đánh xe ra tới chợ huyện rồi xuống, để Thi Bình lại, không nói không rằng quay đi, chốc sau đã mất dạng. Hỏi ra mới biết Cửu đã đi xa đường về Vĩnh Châu, bèn hỏi thăm chỗ đến bến tàu. Người dân nghe Cửu hỏi xong thì nói: 

– Không được đâu, ngoài bến chỉ có năm ông chủ tàu, mà mới tối hôm qua chết hết rồi.

Cửu nghe xong bèn nhìn vào kim lệnh, nó vẫn nằm trong túi, định bụng quay đi tìm đường bộ. Vừa quay ra sau thì đụng trúng một người đàn ông chừng độ bốn chục. Người đó vừa đứng dậy đã luôn mồm chửi bới Cửu, còn dọa nếu không phải gấp lên quan thì đã cho người đánh chết y rồi, nói xong bực bội bỏ đi. Cửu cúi xuống nhặt tay nải thì thấy kim lệnh đã văng ra. Ngước lên nhìn, trước mặt là một phụ nữ nhan sắc tuyệt trần.

Chia sẻ câu chuyện này

Tác giả Lâm Gia – Thái Bảo
Minh họa Bảo Huyên
Thiết kế và dàn trang TRẦN VĂN HẬU

Share