[Tiểu thuyết] Án Sát Tầm Hồ – Kỳ 8: Đỉnh Đu đoạt mạng

[Tiểu thuyết] Án Sát Tầm Hồ – Kỳ 8: Đỉnh Đu đoạt mạng

Con quái vật hung tợn với tên gọi “Con Đỉnh Đu” là nguyên nhân gây ra hàng loạt vụ án phanh thây tàn khốc trong ngôi làng nhỏ bên rừng sao.

Ông chủ trọ nói:

– Tụi mày nghe mà đúng không?

Tụi kia gật đầu, cả đám nghĩ tiếng động là do mấy con khỉ núi làm nên cũng không quan tâm nữa, lấy thêm mấy “vật lạ” từ giường ra. Bỗng nhiên một trận gió thổi tới lạnh ngắt, đám này giật mình đưa mắt nhìn ra cửa thì thấy một bóng người đang ngồi vắt vẻo ở đó, không ai khác chính là Dương Thiên Cửu.

Đám người đó ban đầu giật mình, sực nhớ ra chưa có gì bại lộ nên không dám “mở miệng khai tội”, chỉ đứng đó im lặng, coi Cửu mà sơ hở thì lụi một dao. Chủ trọ hỏi: 

– Tưởng ông chạy đi rồi chớ!

Đám này vẫn cho là Cửu tiếc vàng nên tính quay lại lấy mà thôi. Cửu không nói không rằng, leo xuống rồi lại gần đám người đó, rút kim lệnh ra giơ cao, nghiêm mặt nói:

– Quân ác nhơn, còn không mau quỳ xuống chịu tội!

Tức thì tựa như có một bàn tay vô hình khổng lồ ấn đám người kia nằm sát đất, bọn họ chưa kịp hiểu chuyện gì thì tội trạng đã được Cửu kể ra.

Thực ra phòng tự sát chính là phòng số 3 này – căn phòng mà Lệ Hằng và Lệ Thi ở. Phòng số 4 kỳ thực là kho từ xưa tới giờ, ban chiều Cửu chỉ có nghi ngờ thoáng qua, cộng thêm cái cửa sổ phòng số 4 nhỏ xíu như vậy, ai lại tự làm khó mình để tự sát làm gì? Cửu quan sát các góc phòng số 3, thấy có nhiều sợi tóc đủ kiểu nam nữ, dự đoán là của những nạn nhân trước còn sót lại, người sau vô ở dọn không hết. Suy luận của Cửu chỉ đơn giản là: tất cả những người ở dãy trọ này đều chung một giuộc. Chúng cùng nhau hại chết những khách trọ bằng cách khiến họ buộc phải tự sát vì bị ám ảnh sau đó chia nhau tư trang tài sản của nạn nhân.

Còn những chuyện kinh dị xảy ra là nằm ở mùi hương kỳ dị trong phòng này, cũng chính là thứ bọn người kia lấy ra khỏi giường, nó là Nấm Ma Hương. Loại nấm này trong dân gian cũng có đôi lần xuất hiện, nhưng không phổ biến. Cửu biết rằng nó phát ra mùi hương xâm nhập vô não khiến người khác gặp ảo giác, hít lâu thì chiếm lấy tinh thần nạn nhân, làm họ chọn cách tự tử. Kỳ thực nơi này chẳng có ma quỷ gì cả, tất cả đều do ảo giác mà ra. Cả Hằng với Thi đều chịu đựng cảm giác đó. Tuy nhiên, người này thì nghĩ người kia bỏ lơ mình, tương tự như chuyện Hằng phủ nhận lời của Thi rồi đến chuyện Thi nói không biết Hằng làm gì. Loại Nấm Ma Hương đó muốn thu hoạch thì phải đợi cho nó hấp thu nỗi sợ hãi của người tự tử, mỗi khi có nạn nhân thì linh khí trong nó dâng đầy. Cửu cho rằng đám người trong nhà trọ chỉ là bọn phàm phu, ắt hẳn sau lưng có kẻ chủ mưu khác.

Cửu lấy cây nấm lên, bảo:

– Ai sai bọn mi trồng?

Tay chủ trọ khai: 

– Một tên đạo sĩ họ Phùng, quê ở Long Xuyên!

Cửu hỏi: 

– Có biết nó lấy làm gì không?

Lão đáp: 

– Không biết!

Cửu nhìn thì đoán có lẽ không biết thật. Cầm trên tay cây nấm ma, ánh mắt y lộ vẻ tức giận lung lắm, như gặp lại cừu thù, liền lấy lại đồ đạc, bỏ đi Long Xuyên. Sáng hôm sau, bên ty cảnh sát ở huyện xuống thì đã thấy tờ án thư đặt cạnh mấy cái xác chết co quắp, sùi bọt mép, mắt trợn trắng. Gã cai đội ở chợ thì từ đó hoá điên, ra chợ lụm lặt đồ xú uế mà ăn, ai nhìn cũng thấy mủi lòng.

Cửu tới Long Xuyên, liền theo những manh mối tìm đến một căn nhà bốn phía kín bưng, ai cũng nói có một người họ Phùng sống ở đó. Theo quan sát của Cửu thì người ở trong nhà này hẳn phải là đạo sỹ luyện ma con, âm binh hoặc ma xó. Trước nhà có cái miễu ông địa nhỏ, bên trong có một bức tượng đất sét đắp hình người. Cửu rút kim lệnh ra, tam giới đều sợ uy của nó một phép. Miễn là Cửu đi tìm công lý, bất kể là thế lực siêu nhiên gì cũng chẳng thể đả động gì đến y được. Y bèn đẩy cửa bước vào nhà.

Ma khí nơi này rất đậm đặc. Trước cửa chính là một lớp màu đen dày cui tựa như tro bụi, kỳ thực chính là oán khí tích tụ, giữa trưa mà Cửu cảm thấy như xung quanh băng tuyết phủ đầy, lạnh thấu xương tuỷ. Cửa chính không khoá, ngó chừng rất cũ kỹ, mở ra mạnh chút cũng có thể làm nó hư hỏng. Bên trong căn phòng bình thường, không gì khác lạ. Cửu không cảm nhận được tên họ Phùng đó ở đây, liền rảo bước tìm kiếm xung quanh, thấy chỗ bức vách sau hương án có lối dẫn xuống địa đạo đang mở hờ, liền kéo bàn rộng ra, đốt một cây đèn rồi bước vào.

Địa đạo vừa tối vừa lạnh, mùi tử khí rất nặng, đoán là có chuyện xảy ra nên Cửu vội chạy đến cuối đường, cảnh tượng kinh hoàng lồ lộ: khắp nơi là những thứ phục vụ cho việc luyện ma thuật của tay đạo sĩ. Xác người bị chặt lìa, da người, đầu lâu treo lên, lưỡi, mắt và mũi được ngâm trong những chum, vại, trên tường còn treo những người bị y lột da lúc còn sống, khuôn mặt đang còn vất vưởng biểu hiện của sự đau đớn lúc chết.

Trong góc phòng, một người mặc áo đạo, tóc búi củ hành nằm vật ra, nhìn thì như chết hơn tháng nay. Người khô đét chỉ còn lớp da đen mốc bám vào xương, trên đó còn mọc ra những cây nấm thân đen, chấm đỏ, hình thù kỳ dị. Cửu thấy tay đạo sĩ đã chết thì không giấu được nỗi thất vọng, đến xem xét kỹ thì thấy gã bị bóp cổ, dấu tay vẫn còn hằn trên lớp da nhăn nhúm. Điều đáng ngờ là, thủ phạm chỉ dùng một tay, lại còn là tay trái để giết gã đạo sỹ.

Trong lúc sờ vào thi thể, Cửu được thêm một phen ngạc nhiên: gã này chỉ vừa chết mới đây mà thôi, bởi vì dưới mông của gã ta còn đang đè lên mấy vỏ trứng gà bị bể, lòng trắng và lòng đỏ còn chưa khô hết. Vậy thì sao cái xác lại biến thành như thế này? Như có suy nghĩ lóe lên, Cửu hít một hơi tìm mùi trong phòng, sau đó để ý dưới đít cái xác không chỉ có trứng gà mà còn có một giỏ hành tím, trong giỏ có một tấm giấy đề chữ “An Trương Tổng, Quy Tức Viên”, tức là hành được trồng ở tiệm Quy Tức tại Tổng An Trương, Vĩnh Châu. 

Cửu lóe lên suy nghĩ, dùng tay bóc một mảnh da có vết hằn ở cổ, ngửi xong thì nghĩ thầm: “Sao lại toàn mùi hành tím?”. Y liên hệ với tấm giấy đề chữ “An Trương Tổng” trong giỏ hành, cộng với hiện trường vụ án, Cửu cho rằng có kẻ giao hành tới cho tay đạo sĩ họ Phùng rồi ra tay hạ sát hắn.

Cửu đứng dậy, lấy án thư ra, phê: “Vạn kiếp bất phục sinh”, dán lên trán của cái xác rồi quay trở ra, cảm thán nói: 

– Tử Vỹ Hồ, suýt chút nữa ta bắt được ngươi rồi!

Tay Cửu bất giác siết chặt nắm đấm, ra vẻ bực lắm. Cửu lại bến tàu, tìm một chiếc đi hạt Bạc Liêu, hy vọng ở Vĩnh Châu sẽ kiếm được thông tin. Ngày đó, hành chính miền Tây chia ra quận Vĩnh Châu thuộc tỉnh Bạc Liêu. Hạt Bạc Liêu có hai Tổng và mười một làng. Làng Vĩnh Châu thuộc Tổng An Trương. 

Ghe vừa chạy, gần ra khỏi địa phận tỉnh An Giang (lúc đó địa phận tỉnh An Giang rất lớn, dài đến cả Hậu Giang) thì va chạm với một ghe chở lúa. Cả hai ghe đều bị lật, nhân mạng không thiệt hại nhưng bấy giờ trời đã tối, mọi người bèn quyết định ở lại. Cửu thấy tốn thời gian, bèn một mình rảo bước. Đi chừng hai cây số thì đến một ngã ba, một nhánh đường lớn, một nhánh đường nhỏ có lát đá xinh xắn. Hai bên là hàng cây sao bự cỡ nửa vòng ôm.

Cửu đang đi thì kim lệnh rớt ra, lăn về phía con đường nhỏ. Y chậc lưỡi, mặc dù rất gấp nhưng đây là ý trời nên cũng chỉ còn cách đi về hướng ấy mà thôi. Con đường băng qua hai bên ruộng đồng và nhiều rẫy trồng đậu, đang đi thì thấy phía sau có ánh đèn, nhìn lại thì thấy có một chiếc xe ngựa kéo đang đi tới. Người trên xe thấy Cửu đi một mình, liền cất tiếng hỏi: 

– Anh gì ơi, đi đâu tối thui mà còn vô đây? Lạc đường hay sao?

Cửu vờ nói: 

– Dạ. Tôi đi lạc, anh hai biết chỗ nào tá túc không, cho tôi xin ở nhờ một đêm, mai tôi đi liền.

Người ấy khẳng khái đáp: 

– Được, được, cũng gần tới xóm đó rồi. Anh lên xe đi.

Thoạt đầu Cửu tưởng người ấy là nam, nhưng khi không bị chói đèn nữa mới biết là phụ nữ, còn khá trẻ nhưng giọng nói khàn khàn làm Cửu hiểu lầm. 

Cô gái đánh xe giới thiệu mình họ Phạm, tên Thi Bình, quê ở Cái Bè, làm việc chở gạo và lương thực vô làng này cho một số bác sĩ người Pháp. Làng này vốn dĩ không có tên, một số nhà khoa học bên Tây qua, chọn nơi này để tập trung nghiên cứu một vài loại thuốc. Hàng tuần, Thi Bình đều đánh xe ngựa chở gạo tới. Hôm nay do tai nạn của hai chiếc ghe kia nên gạo lên trễ, phải giờ này mới chở đến nơi được.

Cổ hỏi: 

– Anh ở đâu tới? Coi bộ anh không phải người ở Tổng này, chứ dân ở đây không ai dám vô cái xóm này nữa hết.

Cửu tò mò: 

– Bộ trong này có ma quỷ quái thú hay sao mà bà con sợ dữ vậy cô Bình?

Bình có vẻ e dè, lát sau cô dặn: 

– Ờ thì… trong làng đó thoải mái thì có, nhưng tôi khuyên anh ở xong tới sáng mai đi theo tôi về nghe, đừng thấy làng đẹp mà ham ở lại, nguy hiểm lung lắm.

Cửu bèn hỏi nguyên cớ, Bình tặc lưỡi, nói là: 

– Chuyện dài lắm. Nôm na mà nói thì trong làng có một khu rừng, người ở của mấy nhà Pháp kêu nó là rừng ăn thịt người. Mấy năm đầu ở thì không có gì, về sau cứ có người mất tích hoài, người làng sống không nổi nên trốn đi.

Cửu nghe xong, trầm ngâm giây lát, cuối cùng cũng biết được lý do kim lệnh rơi ra là vì muốn mình giải quyết chuyện ở đây. Cửu nói: 

– Nghe ghê vậy. Đầu đuôi ra làm sao, cô Bình cho tôi hay với.

Bình đem chuyện mình biết được, kể ra hết.

Hơn chục năm trước, khu này là một rừng sao rất lớn. Có một đoàn nghiên cứu khoa học người Pháp tới đây, thấy thích hợp để nghiên cứu nên xin lệnh cho xây dựng một làng nhỏ sâu bên trong. Ban đầu có hơn bốn chục hộ là gia đình của các nhà khoa học, bác sĩ, cả Việt và Tây ở chung trong đó. Dần dần, những người ở khi đi ra chợ kể lại, năm đầu tiên thì không sao, sang năm thứ hai tự nhiên đêm nào họ cũng nghe từ phía cánh rừng vọng lại những tiếng “gừ gừ”, nghe như con gì đang nhai vậy. Đây cũng là lúc bắt đầu xuất hiện các vụ mất tích, ban đầu là một cô người ở, sau là hai, ba rồi nhiều hơn.

Hễ ai đi vào rừng tìm người cũng đều phải chịu kết cục như nhau, đêm nào nghe tiếng rên rỉ vọng về là sáng hôm sau, những mảnh thịt băm vằm được rải ra dọc theo bìa rừng, nhìn hết sức kinh khủng. Từ đó về sau, các vụ mất tích vẫn tiếp diễn, tiếng động kỳ lạ sâu trong rừng sao vẫn còn nhưng chẳng ai dám bén mảng vô đó nữa. Lần lượt từng người từng nguời biến mất, một số nhà khoa học sợ quá bỏ chỗ ở. Cứ tưởng trốn đi thì không sao, ai ngờ vài bữa sau đã thấy cái đầu bị gặm nham nhở của những người đó nằm lăn lóc ở đầu làng. Hiện giờ trong làng chỉ còn năm hộ của năm bác sĩ người Pháp và một gia đình người Việt, họ ở lại để nghiên cứu về thảm thực vật.

Cửu gặng hỏi, thoạt đầu Bình chỉ lắc lắc đầu nói không biết, nhưng cửa miệng lại thốt ra ba chữ Con Đỉnh Đu. Cửu thấy khó hiểu hết sức, muốn nói chuyện thêm nhưng Bình lại tỏ ra bối rối, có hỏi chuyện cách mấy cũng chỉ lo im lặng đánh xe.

Sau gần ba chục phút, ngôi làng đã thấp thoáng trước mặt hai người. Cổng làng thiết kế theo kiểu dinh thự Pháp rất đẹp, đường lát đá xanh, hai bên trồng cây sao. Nhà cửa đều xây theo kiểu Châu Âu, phần lớn là bị bỏ hoang, chỉ còn vài nhà sáng đèn. Một người đàn ông ngoại quốc cao to tóc vàng đang đứng đợi trước căn nhà lớn, Bình thấy vậy thì dừng ngựa lại, xuống chào người kia. Hai bên nói qua lại gì đó, thấy người đàn ông gật đầu rồi tiến lại chiếc xe. Cửu thấy vậy cũng xuống theo, đi tới bên cạnh. Người kia thấy Cửu, chào y bằng tiếng Việt rất sõi: 

– Chào cậu, tôi là Gustave. Nghe Bình nói cậu cần chỗ ngủ, có thể ngủ ở nhà tôi, không sao đâu.

Cửu chỉ cười, bắt tay lại. Họ khiêng các kiện hàng vô kho, chút xíu sau đã xong. Bình ngủ lại ở một nhà khác, hình như là kho hàng của riêng nơi này, còn Gustave dẫn Cửu về nhà ông ta. Đó là một căn nhà gỗ xinh đẹp, phía trước đặt bức tượng con cú rất to nhưng chỉ có một chân. Vừa vô tới cổng, Gustave bỗng đổi giọng, khá nghiêm trọng, nói: 

– Đêm nay hy vọng cậu ngon giấc, có nghe tiếng động gì cũng chớ nên ra ngoài xem, nhớ nhé!

Nói đoạn, Gustave nhẹ nhàng đóng cửa, trước khi quay đi còn ném ánh nhìn rất khó hiểu về phía Cửu. Án Sát Sứ thấy khó hiểu, thầm nghĩ: “Ông này sao thay đổi thái độ nhanh vậy?

Đêm đó Cửu đang nằm ngon giấc thì bị âm thanh kỳ lạ từ phía rừng sao làm cho bừng tỉnh. Cửu tung mền chạy ra ngoài, đó cũng là khi xung quanh nổi lên những ánh đuốc và tiếng tri hô vang trời: cô gái đánh xe tên Phạm Thi Bình đã mất tích!

Chia sẻ câu chuyện này

Tác giả Lâm Gia – Thái Bảo
Minh họa Bảo Huyên
Thiết kế và dàn trang TRẦN VĂN HẬU

Share