Bốn giờ sáng, tiếng xe máy vang lên hòa vào tiếng Hà Tiên đang trở mình. Sau câu nói của anh Hùng, mọi thứ như lắng lại, chẳng bàn thêm gì nữa. Con đường trải dài trước mắt, dẫn đến một chuyến phiêu lưu vô cùng cam go và nguy hiểm, nhưng tôi hiểu vì sao lòng tôi chẳng mảy may có chút sợ hãi. Tôi sống suốt mười tám năm chỉ biết rúc vào vòng tay bảo bọc của gia đình. Những năm sau đó, tiếp xúc với đời cứ ngỡ nó cũng là chốn an toàn ai ngờ bị thứ phũ phàng gọi là bon chen đẩy cho những vố quá đau. Tôi thu mình lại, niềm tin vào con người cũng vì thế mà mất dần. Đâu có ngờ, chỉ với một di sản thừa kế mà ông nội để lại, tôi đã có thể tìm thấy một thứ tưởng rằng không hề tồn tại, một sự bảo bọc tưởng rằng đã bị lãng quên, cảm giác chẳng khác gì đang ngồi giữa gia đình.
Đó là bạn bè.
Tôi nhìn những con người đang đi cùng đoạn đường với mình một lượt. Anh Hùng vẫn phì phèo điếu thuốc, lâu lâu anh lại ngậm nó vào miệng, tốc độ xe làm nó cứ oằn lên, khói vẽ trên bộ râu của anh một màu trắng xoá; Tú Linh đã sang xe cho anh chở, phút chốc cô lại nâng nhẹ cái nón bảo hiểm cho gió lùa vào tóc làm mùi hương cứ thoang thoảng. Sinh ngồi ghế sau cứ giục tôi chạy lên dẫn đoàn, nó bảo nhìn hai người Hùng và Tú Linh là muốn ói ra hết Gò Đen. Tôi nghe vậy thôi, chẳng nói gì cả, nhưng tôi biết mình đang không kìm nổi một nụ cười, và tôi cũng biết nụ cười này là nụ cười mà tôi từng có suốt mười tám năm đầu đời.
Trời sáng rất nhanh. Xe khách, xe công chạy như muốn xé nát con đường. Do mật độ giao thông dần đông lên nên anh Hùng phải giảm tốc độ. Chúng tôi chen giữa khói bụi, phải mất sáu tiếng đồng hồ mới đến địa phận Hòn Đất, Kiên Giang. Anh Hùng thấy chẳng vội được, bèn cho xe dừng lại bên một quán ăn ven đường, bảo mọi người lót dạ, uống chút cà phê, kéo vài hơi thuốc cho tỉnh táo.
Thức sớm nên đói sớm, tôi ăn nhanh rồi tranh thủ ngồi cạnh anh Hùng ngắm nhìn chợ sáng tấp nập người qua kẻ lại, người mua kẻ bán. Thấy tâm trạng cả đoàn đã trở nên thoải mái, nhất là sau vụ của ả La Tiên, tôi mới hỏi anh Hùng:
– Viên ngọc thứ ba ở U Minh đúng không anh? Em nhớ anh kể, lúc ở Núi Két, con bé quét sân có nói.
Anh Hùng gật đầu, Tú Linh và Sinh thì im lặng, nhìn xa xăm. Tôi thắc mắc sao lần trước thay vì đi Kiên Lương, mình không đi U Minh luôn. Tính ra U Minh còn có địa điểm cụ thể, còn Bát Quái Động ở Kiên Lương rồi Ca Lâu Thành, mạo hiểm nhiều thứ quá, chẳng phải khó hơn sao? Tôi cứ tưởng anh Hùng sẽ tỏ ra khó chịu hay đại loại vậy, ai ngờ anh cười lớn rồi giải thích:
– Chính mày cũng nói “địa điểm cụ thể” đúng không? Vậy giữa một cái núi Mo So chu vi vài cây số và một rừng tràm khổng lồ rộng chín trăm ngàn héc-ta, chỗ nào cụ thể hơn? Thêm nữa là U Minh là rừng quốc gia, kiểm lâm dày đặc. Lục lâm ngoại đạo xã hội thông thường, bộ muốn nói vào lõi rừng là vào được hay sao? Lỡ bị bắt lại thì khỏi tìm ngọc tìm lan gì hết. Với lại…
Đột nhiên anh Hùng bỏ lửng câu nói ở đó, rít một hơi thuốc thật sâu rồi tiếp:
– Mày có nhớ hồi nãy lúc đi anh có nói đi đến nơi có “Con Đường của lục lâm” không?
Tôi gật đầu, anh bắt đầu câu chuyện bằng một tiếng thở dài.
Người xưa có câu: Rừng thiêng nước độc làm gì có đường, người ta vén rừng, chặt cây, đi riết rồi thành đường đó thôi. Lục lâm ban đầu khởi sinh từ những người Phù Nam đi săn lan, nhà họ ở Óc Eo. Rừng núi kể ra cũng có nhưng đồ quý không nhiều. Dần dà, những người săn lan có truyền miệng nhau về một khu vực âm u, quỷ dị, khó đi vô cùng nhưng đổi lại, nếu tìm được lan thì đảm bảo sẽ sống sung túc suốt đời, khu vực đó chính là U Minh. Rừng U Minh đối với lục lâm, có thể coi như là thánh địa, chuyện săn lan dĩ nhiên không phải là chuyện đùa. Trong khu rừng này, hiểm nguy trùng trùng, ma quỷ thú dữ nhiều vô số, đâu thể mạo hiểm mà nói đi vào là đi như vậy. Lần này đi thực ra anh Hùng cũng không muốn lôi mọi người theo, nhưng có những thứ cảm xúc anh không thể diễn tả, chỉ biết coi nhau là huynh đệ, sống chết có nhau rồi thì không câu nệ nữa.
Tôi nghe xong cũng hơi lo lo:
– U Minh ghê gớm đến mức đó sao? Em nghĩ nơi nào có lục lâm, cũng sẽ có những dân chuyên dụng như hàng thịt hoặc thả diều để hỗ trợ chứ?
Sinh có vẻ hứng thú với câu hỏi này, nên giành trả lời, nó nói:
– Cũng còn tùy chỗ đó có phát triển được lục lâm hay không nữa ông anh. Ví dụ ông mở quán xá, có khi nào chui vô chỗ không có khách mà mở đâu. Lục lâm cũng chỉ là con người, đâu ai thấy khó mà cứ đâm đầu vô tội vạ như vậy được! Với lại, do là “thánh địa”, nên hầu như chỉ có lục lâm “cố cụ” chán đời hoặc muốn xa lánh thế sự mới chui vô đó. Nhớ đợt gặp Lăng Trì Nương Nương không? Có trời mà biết ai là người tốt ai là kẻ xấu, lục lâm cứng cựa trong đấy nhỡ có kẻ xấu thì chết dở, ngay cả con Thùy mà còn là…
Sinh nói đến đó thì im lặng. Anh Hùng tiếp lời nó:
– Mày nói đúng. Đúng là chẳng biết thật giả đâu mà lần!
Tôi bảo:
– Mà thế nào cũng có người vào đó băng rừng rồi chứ. Họ có kể gì hay ho không?
Tú Linh gạt tay:
– Cái đó nhóc tự đoán được mà. Ngoài những kẻ ẩn cư mà sức mạnh thượng thừa, những người nổi tiếng khác dĩ nhiên là đệ tử của Lý Tổ sư. Sư phụ chế hồi trước đi chữa bệnh cho mấy người cách mạng có kể lại, ngày ấy quân cách mạng chỉ đóng cách bìa rừng chừng mấy cây số đã làm cho giặc sợ té đái mỗi khi càn quét vô rồi, ấy vậy mà bên trong còn đến mấy chục cây số rừng tràm, nước có chỗ ngập quá đầu, quái thú trong đấy không chừng biết nói luôn. Có lần sư phụ chế đi sâu vào trong cũng phải e sợ chỉ riêng đám thú ấy thôi mà phải trở ra. Nghe nói phía sau lớp rừng đó còn có một cái Lõi, gọi là Con Đường của lục lâm. Chuyện gì xảy ra trong cái Lõi đó thì chưa nghe kể…
Không hiểu sao nghe Tú Linh nói đến đó, tôi lại thấy phấn khởi đến lạ, chỉ mong mở mắt ra thấy mình ở ngay U Minh, khám phá một chuyến cho thống khoái. Bỗng sực nhớ đến cái Phù trên vai, tôi lại hỏi liệu có đi khai Phù hay không. Nghe đến đó anh Hùng và Tú Linh tỏ ra hơi lúng túng, anh chia một ánh mắt với Tú Linh, nhún vai rồi cười, bảo:
– Em nói đi.
Tú Linh nhìn tôi rồi nói ra một thông tin khiến tôi cảm thấy có chút buồn. Đầu tiên phải giải thích Phù là gì. Cơ bản, Phù là loại liên kết năng lượng của một sức mạnh tự nhiên nào đó vào cơ thể con người. Có rất nhiều loại Phù, động vật hay thực vật đều có thể dùng để làm nguyên liệu tạo Phù được: rắn, chim én, cá sấu, tầm gửi, trúc ống, vân vân. Trong giai đoạn kết Phù, người kết Phù sẽ tạo ra ba lớp Kết chồng lên nhau. Sau này muốn khai Phù chỉ cần mở ba lớp Kết đó là được.
Sở dĩ phải có lớp Kết này, tương tự như két sắt để tiền, bảo vệ sức mạnh đó đến khi nó đủ trưởng thành thì mới khai. Nếu không có những lớp Kết, năng lượng bên trong sẽ dần thất thoát đi. Ban đầu Tú Linh cho rằng Thiên Hổ của tôi cũng chỉ có ba lớp Kết, không ngờ ngày xưa ông bác tôi còn tạo thêm ba lớp Ấn và sáu lớp Chú phủ chồng lên làm mọi chuyện trở nên phức tạp vô cùng. Có thể do khi kết Phù, tôi còn quá nhỏ, lại vừa bị vong nhập, thể xác lẫn tinh thần đều suy kiệt, ông bác chỉ muốn kết Phù để tôi không còn bị ma quỷ quấy nhiễu. Hoặc có thể nguyện vọng của ông nội tôi không muốn tôi dính líu đến thế giới lục lâm, sợ Thiên Hổ trưởng thành rồi tự thân nó bộc phát sẽ làm tôi đột tử mà chết. Nói vậy thì hẳn bác và nội tôi đều là dân thứ dữ, nhưng khi nói tên ra thì anh Hùng, Sinh và Tú Linh đều lắc đầu không biết.
Chuyện khó hiểu hết sức, không thể nào một gia đình lục lâm xoàng xĩnh lại sở hữu đồ khủng như Thiên Hổ được. Với lại cách kết Phù theo Tú Linh kể, là một nghi thức rất tốn thời gian và chuẩn bị công phu, nhưng ngày ấy bác tôi chỉ cầm cục đất sét, in lên vai, lầm rầm bài Chú gì đó, thế là xong, chứ đâu có làm nghi thức gì đâu? Điều này cũng khiến Tú Linh và anh Hùng chau mày, như đang lục lại ký ức. Riêng tôi thì như rơi vào mê trận, chẳng thể hình dung được gì nữa.