[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 111: Địa ngục Ashoka

[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 111:  Địa ngục Ashoka

Kỳ trước, lạc lối giữa rừng U Minh, họ tìm thấy một nền văn minh cổ và phát hiện ra cánh cửa nhỏ ẩn dưới tượng thần.

Dưới ánh sáng yếu ớt từ cánh cửa ẩn dưới tượng Vishnu, cả nhóm mạo hiểm bước xuống cầu thang u ám. Mỗi bước chân vang vọng như lời thì thầm của những linh hồn lạc lối, đang tiến gần đến cuộc đối đầu với định mệnh. Cánh cửa ấy có thể là lối thoát duy nhất, hoặc là con đường một chiều dẫn vào cạm bẫy chết người, nơi hiểm nguy và bí ẩn đang rình rập.

Bậc thang dẫn xuống rất sâu, ở dưới có một chỗ ngoặt, đến đó tôi không nhìn thấy được gì nữa. Cả bọn chỉ kịp hít thở vài cái, xem xét lại vật dụng. Anh hùng xắn tay áo lên, mục đích để sẵn sàng dùng Chú. Sinh không thể lãng phí tay, nó chọn cầm dao đi rừng thay vì đuốc. Tú Linh chuẩn bị kim. Anh Hùng bảo tôi đi sau anh, thỉnh thoảng dùng Thiên Hổ quan sát phía trước cho cả đoàn để báo cáo tình hình là được. 

Chuẩn bị tinh thần xong xuôi, anh Hùng dẫn đầu, chậm rãi bước xuống những bậc thang làm bằng đá tảng đã ẩm mốc, ngộ cái là không có rêu. Hai bên tường lát đá gì tôi cũng không rõ, nó màu xanh ngọc, lỗ chỗ như tổ ong. Hai bên vách là những loạt mười hai ô vuông ghép lại thành một hình chữ nhật, mỗi ô vuông to hơn gang tay, Mười hai viên gạch là mười hai hình cách điệu chim thú gì đó trông hết sức lạ lùng. Con số mười hai gợi nhớ về mười hai con giáp của phương Đông hoặc như cung Hoàng Đạo, nhưng tôi nghĩ mười hai con vật được khắc trên gạch này không ám chỉ về mười hai con giáp. Chúng xuất hiện rất nhiều, thứ tự lần lượt là: đại bàng, hươu, heo rừng, trâu, rắn, khỉ, bò cạp, cá sấu, chuột, ếch, sên và một loài cá gì đó trông như cá rô. Chúng tôi nghĩ mãi không ra nên cũng đành để đó, định bụng sau khi đi về sẽ tìm hiểu sau. 

Trần hầm khá cao, đường đi xuống cũng rộng rãi nên bọn tôi di chuyển thoải mái, ít ra nếu có gặp miễu cũng dễ bề ứng phó. Ánh đuốc tuy sáng nhưng nó giống như bị nuốt chửng bởi bóng tối phía trước, cách xa sáu bảy bước chân thì không thể thấy gì khác. Thú thực là tôi cứ lo nơm nớp. Giữa bóng tối vây quanh thế này, ngộ nhớ có những cái xác như ở bên trên, thình lình trong bóng tối nhảy xổ ra, tôi không biết mình có phản ứng kịp hay không.

Xuống chừng ba mươi bậc thang thì chỗ ngoặt đã hiện ra trước mắt chúng tôi. Tú Linh lấy tay lên phẩy phẩy trước mũi, nói:

– Mọi người có nghe thấy mùi nồng không?

Đúng là ở khoảng cách này, cảm giác như phía trước, sau khi rẽ vào lối đi kia sẽ gặp phải cả một núi chuột chết đem phơi khô. Mùi rất nồng và tanh đến buồn nôn. Anh Hùng cũng đồng ý, nhưng bổ sung thêm:  

– Một dạng âm khí chăng? 

Tú Linh lấy trong túi ra mấy cái khăn, cô đổ một ít bột thuốc có mùi quế vào đó xong rồi đưa cho bọn tôi. Đeo cái này vào tuy có ngộp chút ít nhưng đỡ phải chịu đựng cái mùi quái quỷ kia nên tôi cũng ráng. Sau khi đeo xong, tôi hăng hái xung phong sẽ lên thám thính trước. Anh Hùng đồng ý, nhưng anh sẽ đi chung với tôi. Cả hai một trước một sau chậm rãi tiến đến chỗ bước ngoặt, nó dẫn vào một căn hầm khác lớn hơn.  Không gian tôi nhìn thấy được sâu hun hút, hai bên trông như vẫn là tường gạch, có những chỗ lõm vào như để đặt tượng gì đấy không rõ. 

Tôi báo lại với anh, thấy phía trước không có thứ gì nguy hiểm, anh ra hiệu cho bọn tôi từ từ tiến vào. Để cẩn thận, anh Hùng ướm chừng rồi ném nhẹ cây đuốc về trước. Anh ném thấp, cây đuốc bay đoạn ngắn rồi lăn tròn trên mặt đất, soi sáng hành lang trước mặt bọn tôi. Tôi ngay lập tức rút lại suy nghĩ khi nãy là cảm giác nơi này có vẻ bình thường. Hành lang phía trước trần cao, rộng, hình vòm, vẫn dùng gạch xanh ốp tường, hai bên tường có những chỗ giật vào hình chữ nhật, cao đến hơn bốn mét, trong đó là những tượng phật tọa thiền. Xa hơn một chút về phía trong, khắp nơi là những cái xác khô được đóng, buộc, trói vào tường, hình thù thập phần kỳ dị. Tượng Phật nơi này nhìn sơ ngang có nét giống với những tượng Phật Nam Tông, nhưng vẻ mặt lại nhuốm mùi tà ác khó tả. Ánh mắt tượng nửa khép nửa mở, ánh đuốc soi lên trông như đang nhìn vào bốn chúng tôi mà cười đầy châm chọc. Tượng tạc bằng đá nguyên khối, từ đỉnh đầu có một vết ố màu đen chảy dài xuống, trông như máu, hết sức ám ảnh.

Anh Hùng không nói không rằng, tiến lên trước dẫn đoàn. Anh hỏi cuối đường này tôi có thấy gì không, tôi kể lại những gì mình thấy cho anh. Anh suy nghĩ gì đó rồi nói: 

– Không lẽ đây là “Địa ngục Ashoka” sao?

Tôi ngây ra, không hiểu cái địa ngục Ashoka đó là cái gì. Dĩ nhiên với anh Hùng, Sinh và Tú Linh thì xác suất họ biết là cao. Sinh nói với tôi để nó giải thích, vì chuyện này có liên quan đến Phật Giáo, ngày xưa dù gì Sinh cũng tu trong chùa mấy năm, nên có nghe đến tích này. Như Tú Linh đã nói, khả năng cao tộc Cô Chỉ có xuất thân là người Hưu Mật thuộc liên minh Nguyệt Chi, từ thời Đế quốc Kushan mới di cư sang vùng Nam Bộ. Trước vương triều Kushan, người có công hợp nhất hai nền văn hóa tồn tại đan xen lúc ấy ở Ấn Độ là Hy – La và Hindu là Đại đế Chandragupta của vương triều Maurya. Ông này có một người cháu nối ngôi tên là Ashoka, trong kinh Phật vùng Đông Á lưu truyền tên gọi theo phiên âm Hán Việt là A Dục Vương.

Tương truyền Ashoka là một người văn võ song toàn, đánh đâu thắng đó, mở rộng bờ dcõi bằng những cuộc chinh phạt liên tục. Tương tự như Tần Thủy Hoàng của Trung Quốc, khi Ashoka thu phục được vùng đất mới dĩ nhiên sẽ gặp những chống đối. Để đàn áp và dập tắt mầm mống bạo loạn, Ashoka cho lập ra một nhà ngục, với những phòng giam được dựng lại như địa ngục trong kinh Phật, hình phạt hết sức tàn ác, không phạm nhân nào vào đó mà còn toàn mạng trở ra. Ashoka cho đó là hình thức răn đe đối với dân chúng, là thước đo pháp trị, củng cố quyền lực, tuy nhiên tiếng oán thán của dân chúng ngày một dâng cao.

Lần nọ, có một vị sư già đi vào thuyết giáo, lính ngục cho rằng vị sư mạo phạm đến Ashoka, bèn túm lấy ông và quăng vào vạc dầu sôi. Thế nhưng, trước sự kinh ngạc của tất cả cai ngục, dù lửa cháy hừng hực, dầu sôi dữ dội nhưng vị sư già vẫn bình thản tụng kinh. Ashoka hay tin đến xem thì cho rằng Phật pháp thực sự nhiệm màu, mà vị sư già là minh chứng. Thế là ông ta quy y tam bảo, tính cách thay đổi hoàn toàn, lấy sự từ bi của Phật Giáo để cảm hóa muôn dân. Ông cho xây tổng cộng tám mươi bốn ngàn phù đồ trên khắp cả nước, đem công đức ban phát chúng sinh. Trong thần thoại Phật Giáo lưu truyền Ashoka như là một minh chứng cho sự quay đầu là bờ, chứng thực Phật Giáo, giác ngộ được chân lý. Tuy nhiên, chuyện đó cũng là truyền thuyết mà thôi. Thực tế thì Phật Giáo chia ra muôn vàn nhánh nhỏ, Sinh kể có những nhánh tôn thờ Ashoka, xem đó là hình mẫu của chính đạo: tàn nhẫn song hành cùng từ bi, đúng người đúng tội.

Trước khi vào điện thờ Vishnu, tôi đã choáng ngợp trước sự pha trộn văn hóa Ấn – Hy Lạp, cứ nghĩ rằng trong một ngôi đền kiến trúc gần giống Hy Lạp lại để thờ một vị thần Hindu thì đã là đủ bất ngờ, đâu biết được bên dưới còn có cả một kiến trúc thuộc về giáo lý khác. Anh Hùng cho rằng sự sắp đặt này hẳn có một ý đồ nào đó. Chúng tôi cẩn thận đi chậm rãi tiến về phía trước, vừa đi anh vừa nói suy nghĩ của anh về cấu trúc kỳ quặc của nơi này.

Ở bên trên, tượng thần Vishnu nằm ngủ tượng trưng cho sự sáng thế. Trong các tranh vẽ hoặc tượng về tích này, rắn Ananta thường được thể hiện đầy đủ đầu và đuôi, thể hiện sự dứt khoát, có mở có kết cho một quá trình. Còn trong điện thờ bên trên, rắn Ananta chỉ có đầu, không có đuôi, tưởng chừng phần đuôi được thể hiện chìm dưới tầng này, nhưng đến đây lại gặp Địa ngục của Ashoka, chứng tỏ người tạo nên điện thờ này có suy nghĩ về thứ họ đang cúng bái. Anh Hùng cho rằng đó là sự lo ngại. Có một khả năng nào đó, người Hưu Mật là một người tin tưởng và mong chờ kiếp sống ở cuộc sống sau khi chết. Họ đồng thời tôn thờ cái chết và cũng e sợ cái chết. Theo cách bố trí các tầng của gian điện, anh Hùng nói, có thể thế giới mà những người này muốn thờ phụng, lại là thế giới của Ashoka chứ không phải thế giới của Vishnu. Tuy nhiên cũng có một khả năng khác mà anh thấy khả tín hơn, đó là họ tạc tượng Vishnu đè trên lối đi xuống là để cầu mong cho quyền năng của thần Vishnu ngăn cản được thứ ở bên trong Địa ngục Ashoka này thoát được ra ngoài, đồng thời trong lúc diệt tộc, những người nguyện hiến đầu kia mong chờ một sự sáng thế mới, đưa họ tránh xa lỗi lầm, tựa như cách Ashoka đã làm.

Tôi nghe mà rối hết cả, mới hỏi anh Hùng giải thích ngắn gọn lại. Anh nói anh nghĩ có hai khả năng của công trình lăng mộ này, một là những người cụt đầu do hiến tế trên kia mong muốn được Vishnu dẫn lối đến một thế giới mới. Thứ hai có thể là họ hiến đầu mình để cầu xin Vishnu bằng quyền năng của ngài, bảo hộ họ trước một thứ có thể thoát ra từ địa ngục Ashoka này.

Tú Linh suy nghĩ một chút rồi cũng góp ý thêm vào, theo cô, có một khả năng nữa, đó là tầng địa ngục Ashoka được tạo ra trước tiên, bởi một vị vua nào đó của người ở đây. Sau này đến một đời vua khác mới dựng nên điện thờ Vishnu, với mong ước cứu tộc mình thoát khỏi họa diệt vong, tìm được miền đất hứa mới. Tôi thì không hiểu, trong lúc họa diệt tộc đang ập đến sao không lo chạy, kéo nhau chết cả thì phục hưng bằng cách nào? Dặn lòng không nghĩ đến nó nữa, tôi đưa mắt quan sát phía trước. Xa xa đằng kia, bị bóng tối nuốt chửng, dù không thấy được gì cả nhưng gió từ đấy vẫn thổi đến từng cơn lạnh ngắt, rõ ràng lối ra nằm ở đó.

Lúc này, bọn tôi đã đi qua một quãng xa, các tượng Phật thưa dần, ít ra cũng làm tôi đỡ lo sợ về thứ ánh nhìn ma quỷ không thể nào lại xuất hiện ở một loại tượng đặc biệt trang nghiêm an nhiên như thế. Cứ tưởng áp lực sẽ nhẹ đi phần nào, nhưng không, tôi quên hẳn lúc nãy mình thấy hàng tá xác người được treo lủng lẳng hai bên. Vừa nghĩ đến chuyện đó tôi đã thấy chúng hiện lên trước mắt. Ánh đuốc vàng vọt soi sáng được một quãng ngắn phía trước, từ bóng tối sâu thẳm dần lộ ra những cơ thể teo tóp ở khắp nơi. Đúng vậy, ở khắp nơi, chỉ có duy nhất lối đi là trống. Tường, trần hành lang phủ kín bởi cơ thể người, tứ chi, đầu lâu bằng đủ cách thức để có thể khiến chúng dính vào tường. Thậm chí bên vách hành lang còn có những người bị đổ một thứ hỗn hợp gì đó như kim loại, cơ thể cháy đen, hóa thành một khối với bức tường. Khuôn mặt tuy biến dạng và khô như gỗ đá nhưng nhìn vào nó vẫn còn thấy được sự sợ hãi, đau đớn lúc chết. Đôi mắt của họ có lẽ đã bị móc ra và đổ vào đấy một hỗn hợp màu trắng đục. Sinh thấy tình hình thế này có vẻ không ổn liền nói: 

– Anh Hùng, cẩn thận coi chừng giống lúc nãy ở sảnh điện, tụi mình chạy lẹ đi anh, đám này thành miễu thì mệt người chứ không đùa!

Anh Hùng cũng gật đầu đồng ý.

Cả bọn vừa định chạy thật nhanh khỏi nơi quái quỷ này thì rõ ràng từ phía sau vang lên tiếc lộc cộc như có khối kim loại lăn dài trên nền gạch lạnh lẽo. Bọn tôi dừng lại một chút, quay ra sau để nhìn xem có thứ gì rượt theo hay không để còn biết ứng phó. Sau lưng vẫn chỉ là bóng tối mù mịt, xác người cũng chẳng thấy được, nền đất không hề có gì ở đó cả. Tú Linh bỗng kêu lên:

Mọi người, nhìn phía trước kìa!

Tất cả lập tức quay lại nhìn, đằng trước cách bọn tôi chừng bảy, tám mét là một cây đèn trường minh đăng được làm từ một cái xác cụt đầu, chặt tứ chi, bụng bị phanh ra trống rỗng, bên trong là bấc và một ánh lửa màu xanh lơ. Âm thanh cộc cộc khi nãy có lẽ phát ra từ giá đỡ bằng kim loại chăng. Câu hỏi là tại sao ở trong địa ngục này lại có một cây đèn trường minh đăng? Thêm nữa lúc nãy âm thanh là từ phía sau nhưng nó lại xuất hiện đằng trước? Tôi chắc mẩm trong đầu tình hình thế này thì mười mươi là gặp miễu rồi, nó lại chắn ngay phía trước, giờ chỉ còn cách chuẩn bị đập miễu mà thôi. 

Bọn tôi thấy tình hình chuyển biến xấu, ai nấy lập tức chuẩn bị tư thế đối đầu với ác quỷ. Quỷ khí trong không gian bắt đầu tăng dần, áp lực rất ghê gớm khiến tôi tuy đã có Thiên Hổ phù trợ nhưng vẫn thấy khó ở bức rức. Cả đám chăm chú nhìn vào ánh đèn ma quái mờ ảo đằng trước. Bỗng nhiên, một làn gió thổi tới rất mạnh, ánh đèn đó tắt ngóm, không gian phía trước chìm vào bóng tối. 

Miễu đến!

Ánh đuốc bọn tôi soi dĩ nhiên không tới được chỗ cái đèn, khoảng cách vừa đủ xa, hiện giờ lại chưa thể tùy tiện tiến lên, cả bọn rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan. Bỗng nhiên nền đất vang lên tiếng “xịch … xịch”, giống như kéo lê một khối thịt rất nặng đi từng bước từng bước vậy. Từ trong bóng tối dần lộ ra một khuôn mặt rất to, không có mắt mũi, làn da xanh tái nhợt nhạt trông bóng như đổ dầu. Cả khuôn mặt được nhấn bằng cái miệng rộng mọc răng nhọn tua tủa, đầu nó đụng trần hang. Sinh thì thầm gì đó có vẻ rất e ngại cái miễu đằng trước: 

– Gặp… gặp quỷ mặt thớt rồi!

Sinh không lo lắng vì nó là quỷ mặt thớt, mà là bên đó có rất nhiều quỷ mặt thớt, lần lượt từng khuôn mặt to tròn bóng nhẫy thò ra khỏi bóng tối âm u, miệng há to như muốn ăn tươi nuốt sống bọn tôi ngay lập tức. Lúc này, tất cả những cái xác hai bên vách nhất loạt quay đầu nhìn bọn tôi chằm chằm. Trước sau đều bị vây khốn, tình cảnh bọn tôi lúc này đúng là mong manh còn hơn cả mành treo chuông. Sinh bị gãy tay, khí lực coi như bằng không. Anh Hùng vẫn chưa khỏi hẳn chỗ vết thương, đường may có thể bục ra bất cứ lúc nào. Tôi thì chưa làm chủ Thiên Hổ hoàn toàn còn Tú Linh thì chuyện đập miễu không phải chuyên môn. 

Những cái xác hai bên vách và trên trần nhìn bọn tôi đăm đăm bằng hốc mắt được đổ đầy thứ gì đó màu trắng đục, da chúng đã khô như vỏ cây từ lâu, quai hàm trễ xuống làm da bong ra từng mảng. Trước mặt, cái thứ mặt thớt gớm ghiếc nhích từng chút ra khỏi bóng tối, thân hình quỷ dị lộ ra dưới ánh đuốc khiến tôi thấy ruột gan như đảo lộn. Chúng có đến mười mấy cái đầu, rất to và bóng, không có mắt mũi, cũng không có cổ. Tóc trên đầu chúng xơ cứng, bết thành từng bó lớn, là thứ “cổ” nối đầu với thân. “Thân” của chúng là những cái xác trương sình, được may với nhau bằng những búi chỉ lớn, trông như tóc. Phần bụng của những cái xác sình này bị mổ banh ra, tóc từ các cái đầu quỷ mặt thớt như bám gốc rễ vào khoang bụng. Tóc của chúng như một con rắn uyển chuyển, nâng đỡ cái đầu ma quỷ. Khắp nơi là tóc, tóc tua tủa, đâm từ các kẽ gạch ra, từ trần xuống, thậm chí khi nhìn xuống chân tôi cũng thấy mình đang đạp lên tóc. Bốn người co cụm lại giữa một rừng miễu, chúng vây xung quanh, quỷ khí tỏa ra khiến da thịt nổi gai ốc, hơi lạnh thấm qua da thịt vô cùng khó chịu. Anh Hùng nói với tôi, gấp gáp và khẩn trương:

Không ổn rồi, mày theo sát Tú Linh, Sinh tự lo liệu nhé, miễu này để anh đập!

Tình thế lúc này chỉ có cách lách người qua đống tóc tai bùi nhùi trước mặt rồi chạy thật nhanh thì may ra. Tôi nói:

– Anh Hùng, để em lên trước!

Anh hùng hiểu ý, gật đầu, tôi liền mở Thiên Hổ, lao đến vung một cú tát bằng vuốt Hổ và cái đầu quỷ mặt thớt trước mặt. Uy lực Thiên Hổ dĩ nhiên không cần phải bàn cãi cho nên mặc dù tôi chưa làm chủ được toàn bộ sức mạnh cũng đã tạo đòn vô cùng bất ngờ và hiểm hóc vào kẻ địch. Con quỷ ré lên chói tai, những cái đầu khác nhảy xổ lại, tóc tai xoẹt xoẹt phi đến, quấn chặt tay chân tôi như con rối. Chuyện này cũng đã nằm trong dự liệu nên tôi không lấy làm bất ngờ lắm. Tôi chụm hai tay mình lại, lập tức thằng Sinh từ sau chặt một dao vào mớ tóc khiến chúng đứa lìa, lúc này con quỷ mất tập trung, anh Hùng lao đến bồi một chưởng vào cái đầu lớn nhất của nó. Cái đầu cháy xèo xèo như đuốc, ánh lửa xanh như ma trơi phát ra luồng khí lạnh lẽo. Biết rằng bấy nhiêu đó chưa thấm tháp gì, anh Hùng liền thi triển Thiên Đăng, đòn này của anh trong Ca Lâu Thành tôi đã có thấy nên may là nhắm mắt kịp lúc. 

Những cái xác bị dính vào tường đang ngọ nguậy định thoát ra ngoài thì ăn trọn một đòn quá mạnh, một số con bốc hơi mất xác, số còn lại thì rú lên đau đớn và kinh hãi. Nhục thể quỷ mặt thớt tuy liên tiếp nhận đòn đau nhưng cũng chẳng thấm tháp vào đâu. Tôi thấy có kẽ hở, liền kêu Tú Linh và Sinh lao đến lách qua. Anh Hùng hiểu ý liền đánh lạc hướng bằng Chú Đại Hắc Thiên. Những cái đầu quỷ tỏ vẻ e ngại nhưng rồi cũng lao đến tấn công bằng những sợi tóc mảnh mai nhưng cứng như sắt thép. Chỉ đợi có thể, anh bộc phát Thiên Thủ Khốc, áp chế đòn tấn công của nó, nó bèn dùng đầu húc, anh Hùng dường như tính toán sẵn, tụ Dạ Xoa Sát vào tay rồi một đòn xỉa thẳng bàn tay vào cái đầu gần nhất. Chỉ tích tắc sau, cái đầu ấy như bị hút vào lòng bàn tay của anh, khi đó nhục thể quỷ mặt thớt đã sơ hở. Sẵn đà Dạ Xoa Sát, anh đạp chân phóng đến, chưởng tung mạnh đến độ những cái xác bị ép xuống, thịt rữa văng tứ tung. Anh Hùng cũng bị chính áp lực ngược lại của cánh tay tác động lên sườn, vết thương có vẻ đã bục ra, máu rỉ ướt áo, mặt anh nhăn nhó trông đau đớn lắm. Ấy vậy mà cái thứ quái quỷ đó vẫn chưa gục hoàn toàn, những cái xác còn lại tách ra, định ăn thua đủ, nhưng bọn tôi đâu có thời gian để lo giết nó hẳn. 

Thấy có khoảng trống, không ai nói ai, tất cả cố sống cố chết chạy thẳng về trước. Tôi kéo Tú Linh. Sinh tuy tay cầm dao đi rừng nhưng vẫn cố ép cái tay gãy vào để tránh bị tác động. Anh Hùng thì như sắp chịu hết nổi, tay chụp vào vết thương không ngừng rỉ máu. 

Hai bên vách lúc này, những cái tay khô khốc vẫn vươn ra, cố bơi quào, chực chờ bám lấy chúng tôi thì sẽ lôi vào cắn xé. Tôi dùng Thiên Hổ nhìn vào phía trước, chỉ thấy một khoảng màu đen, trông như một bức tường, nhưng kỳ lạ là gió từ đó thổi đến, chính xác là…từ dưới bức tường đó.

Tôi giật mình hét lên:

– Coi chừng, hố…!

Chưa kịp hét hết câu, chân tôi không còn cảm giác được đường đi nữa, cũng bởi mãi lo nhìn phía trên, nhưng ai ngờ hố lại ngay dưới chân, bọn tôi đều rơi thẳng vào nó. Nó tối đen, sâu hun hút, có vẻ như được con người tạo nên. Nó dốc, trơn nhẫy, âm phong cứ thổi vào mặt lạnh ngắt!

Bước vào tầng hầm u ám bên dưới ngôi đền cổ, nơi tượng Vishnu trên cao chỉ là lớp mặt mỏng che đậy một địa ngục bí ẩn bên dưới. Âm thanh rùng rợn và mùi xác thối lan tỏa, khiến không khí càng trở nên ngột ngạt. Giữa cơn hỗn loạn, bóng ma và ác quỷ bất ngờ ập đến, đe dọa từng hơi thở của sự sống. Và khi tưởng như đã tìm được lối thoát, cạm bẫy bất ngờ kéo họ xuống vực sâu, số phận cả nhóm liệu sẽ ra sao? Hãy đón đọc tại kỳ sau!

Nếu yêu thích các câu chuyện tâm linh và kỳ bí, mời bạn tham gia Xóm Sợ Ma.

Chia sẻ câu chuyện này

Minh họa : Minh Thảo Võ

Thiết kế :
Trần Văn Hậu

Share