Vũ khí và trang bị binh lính nước ta thời kỳ đầu tự chủ – Kỳ 3

Tác giả Phach Ho Nguyen
Vũ khí và trang bị binh lính nước ta thời kỳ đầu tự chủ – Kỳ 3

Bên cạnh vũ khí, các loại trang phục, giáp trụ cũng được đề cập khá nhiều trong giai đoạn này. Điều đáng tiếc là thông tin về chúng chỉ được ghi nhận từ lúc Đinh Bộ Lĩnh đã thống nhất đất nước về sau. Và những ghi nhận thường chỉ thiên về khẳng định sự tồn tại của chúng hơn là mô tả kiểu dáng, mẫu mã của chúng.

Qua miêu tả của Tống Cảo, như đã nói ở phần trên, quân đội trễ nhất là thời Tiền Lê đã sử dụng khiên khá đại trà (được Tống Cảo đề cập, ám chỉ 2 lần). Việc sử dụng khiên sẽ được nhắc đến khá nhiều lần nữa trong suốt giai đoạn Lý, Trần, Lê sơ,… về sau. Tuy nhiên, đây không phải là phạm vi mà bài viết này bàn đến.

Theo ghi chép của Tống sử về chiến thắng giai đoạn đầu của họ trong cuộc xâm lược năm 981, thuỷ quân nhà Đinh – Tiền Lê trang bị đến hàng vạn giáp trụ. Tuy nhiên, không còn thông tin về mẫu mã, kiểu dáng nào được lưu lại. Chúng ta chỉ có thể phỏng đoán rằng chúng có lẽ chịu một số ảnh hưởng nào đó từ giáp trụ giai đoạn thuộc Đường mới chấm dứt chưa lâu.

Mũ chiến, lạ lùng thay, lại là bộ phận giáp trụ duy nhất được các sử liệu về giai đoạn này miêu tả kỹ. Cụ thể, Toàn Thư khi viết về sự kiện năm 974 liên quan đến việc biên chế quân đội nhà Đinh, bèn nói thêm rằng binh lính thời đó:

đầu đội mũ bình đính vuông bốn góc [loại mũ này làm bằng da, chóp phẳng, bố bên khâu liền, trên hẹp dưới rộng, quy chế này đến đời bản triều khởi nghĩa vẫn còn dùng, đời sau vẫn theo thế].”.

Theo ngữ cảnh của văn bản, có thể hiểu rằng loại mũ này được trang bị hàng loạt cho binh sĩ cả nước từ năm 974, nhưng cũng có thể hiểu rằng nó đã được chế tạo và sử dụng trước đó trong quân đội nhà Đinh ở một phạm vi hẹp hơn. Ngoài ra, theo lời của sử gia Ngô Sĩ Liên đời Lê sơ nói trên, thì loại mũ này sau đó đã trở thành mũ chiến truyền thống của người Việt suốt hơn 500 năm tiếp theo, cho đến tận thời Lê sơ. Nói cách khác, không chỉ riêng giai đoạn Đầu Tự Chủ (880-1010), mà miêu tả binh sĩ người Việt thời phong kiến Đinh-Lý-Trần-Lê sơ, tuyệt đối không được bỏ qua loại mũ này.

Ngoài ra, vào năm 1002, Toàn Thư cũng ghi nhận vua Lê Hoàn đã: “Xuống chiếu làm mấy nghìn mũ đâu mâu, ban cho sáu quân”. Đâu mâu (兠鍪) vốn là một từ để chỉ mũ chiến nói chung. Trong đó, trong chữ mâu (鍪) có chữ kim (金) ám chỉ được chế tác bằng vật liệu kim loại. Cho nên, mũ đâu mâu có thể hiểu là một loại mũ chiến bằng kim loại, khác với loại mũ tứ phương bình đính làm bằng da đã được đề cập vào năm 974. Tuy nhiên, ngoài thông tin đó ra, chúng ta không biết gì hơn về kiểu dáng của loại mũ này.

Tượng Hưng Đạo Vương với giáp trụ kiểu Việt Nam

Ngoài ra, ghi chép của Tống Cảo cũng cung cấp một số thông tin lí thú về trang phục và ngoại hình của binh lính giai đoạn này (cụ thể là thời Tiền Lê). Cụ thể, ông cho biết cấm quân thời Tiền Lê đều thích ba chữ “thiên tử binh (天子兵” lên trán, một biểu hiện của tục xăm mình giai đoạn này, và cũng có thể là một quy định bắt buộc các binh sĩ trên phải chứng tỏ lòng trung của họ với nhà vua đương thời. 

Ngoài ra, Tống Cảo cũng không đề cập gì đến giáp trụ trong quân đội Tiền Lê. Điều này trái ngược với ghi chép mới vài năm trước đó về việc đánh bại mà tịch thu hàng loạt giáp trụ từ quân ta. Điều này dường như cho thấy trừ khi lâm trận ra, ngay cả cấm binh ngày thường cũng không mặc giáp trụ. Thay vào đó, trên đường đến Hoa Lư, Tống Cảo lại cho biết “(Lê Hoàn) lại đem nhiều dân chúng ra cho đứng lẫn với quân sĩ, mặc quần áo tạp sắc, cưỡi thuyền gióng trống reo hò.”. Không rõ ông ta đã căn cứ vào đâu mà cho rằng số quân đón chào mình trên đường đi ấy là dân giả làm lính. Nhưng chi tiết “mặc quần áo tạp sắc” lại là miêu tả duy nhất về trang phục của quân đội Tiền Lê dưới con mắt của Tống Cảo. Phải chăng, đó là những bộ lễ phục mà binh sĩ thời này sẽ mặc trong các dịp đại lễ, mà ở đây là đón mừng sứ giả từ Trung Hoa? Hoặc đơn giản hơn: đó chính là trang phục tiêu chuẩn của quân lính thời này, khi chưa mặc giáp?

Nhưng vậy, qua những dòng ghi chép tản mạn, chúng ta vẫn có thể tổng kết ra khá nhiều chi tiết quan trọng về trang phục, vũ khí của binh sĩ người Việt trong giai đoạn Đầu Tự Chủ (880-1010), có thể tổng kết lại một số ý chính như sau:

  • Chiến thuyền xuất hiện với tần suất áp đảo, đến mức chúng gần như được xem là biểu tượng chiến tranh, ít nhất trong giai đoạn này.

  • Chiến thuyền bao gồm ít nhất hai loại là thuyền nhẹ (có lẽ là mông đồng)lâu thuyền.

  • Tồn tại ít nhất 4 cách thức sử dụng chiến thuyền. Tương tự, ghi nhận được ít nhất 4 cách thức được vận dụng để đối phó với chiến thuyền.

  • Vũ khí tầm xa (nỏ, cung, lao) xuất hiện áp đảo. Trong đó nỏ là vũ khí xạ chiến được đề cập nhiều nhất, cũng là loại vũ khí gắn với Đinh Bộ Lĩnh.

  • Giáo cán tre là vũ khí cận chiến duy nhất được đề cập trong giai đoạn này, từ các tư liệu còn sót lại. 

  • Khiên đã xuất hiện khá nhiều, ít nhất trong hàng ngũ cấm quân thời Tiền Lê.
  • Giai đoạn này cũng khai sinh ra mũ tứ phương bình đính, loại mũ chiến truyền thống của người Việt suốt hơn 500 năm tiếp theo.

  • Có ghi nhận về giáp trụ ở số lượng lớn, được thuỷ quân sử dụng.

  • Binh sĩ trong ngày lễ mặc quần áo tạp sắc.

  • Có ghi nhận về tục thích chữ lên thân thể của binh sĩ.

Hy vọng những thông tin rút ra ở trên sẽ phần nào có ít cho những người quan tâm đến giai đoạn này.

Chia sẻ câu chuyện này

Thiết kế: Gia Thuần

Share