Chúa Nguyễn Bắc phạt – Kỳ 25: Hoa nở trên cây

Tác giả Wong Trần
Chúa Nguyễn Bắc phạt – Kỳ 25: Hoa nở trên cây

Nguyễn Hữu Dật rút quân về đến xã Nga Khê. Bọn hàng tướng Cai đội Lễ Toàn làm phản. Hữu Dật liền sai Cai cơ Trương Văn Vân đi đánh, lại nhân đó đón nhặt các quân lính yếu mệt, cùng với già trẻ, nam nữ mà cánh quân thượng đạo bỏ rơi lại, dẫn hết về Nam. Quân Trịnh được lệnh truy đuổi, nhưng cũng chỉ hành quân từ từ. Đến ngày 29 tháng Mười Một, Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật rút về tới lũy Hoành Sơn.

Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến hối hận vì chuyện bỏ mặc Hữu Dật, nên thẹn thùng hỏi:

– Các tướng dừng lại chờ đợi đã lâu. Sao Đốc chiến tới muộn vậy?

Hữu Dật giả vờ không nghe thấy, chỉ cùng các tướng kể chuyện xông pha nguy hiểm. Rồi ai nấy chia quân giữ lũy để nghỉ ngơi.

Phú quận công Trịnh Căn cũng họp ba đạo quân truy kích. Trong tháng Mười Một, quân Trịnh đánh tan một bộ phận quân Nguyễn ở Bàu Hống. Cuộc truy kích làm họ hao thêm một viên thượng tướng. Đô đốc Thiêm sự Quảng quận công Đào Thế Tiên tử trận.

Đầu tháng Mười Hai, ba đạo quân Trịnh họp nhau ở Hoành Sơn. Trịnh Căn sai quân công kích chiến lũy của quân Nguyễn. Anh em Trần Hưng Học, Trần Hưng Nhượng cũng đi đầu đánh địch. Hai bên bắn nhau ác liệt từ giờ Mùi [1 giờ đến 3 giờ chiều] đến giờ Dậu [5 giờ đến 7 giờ tối]. Quân Trịnh thiệt hại nhiều. Trịnh Căn bèn sai lui quân hơn hai mươi dặm để hạ trại.

Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến thấy quân Trịnh đông, không thể ở lâu, bèn bí mật truyền lệnh các đạo rút về lũy Nhật Lệ, chỉ lưu Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật, Cai cơ Trương Phước Hùng giữ lũy Hoành Sơn để chặn hậu. Đại quân rút đi rồi, Nguyễn Hữu Dật cũng điều phối việc lui quân.

Nguyễn Hữu Dật sai Cai cơ Trương Phước Hùng xuống đóng ở thôn Bình Lâm xã Phù Lưu, để làm nghi binh. Nếu thấy ở cửa Ròn có lửa bốc thì triệt quân về giữ núi Lệ Đệ. Hữu Dật lại sai bọn Đội trưởng Tài Minh tới cửa biển Ròn thiêu hủy doanh trại, đồn, kho để làm hiệu, và phá hủy cầu Ròn. Sau khi xong việc thì đem quân về xã Thanh Hà để đợi. Nguyễn Hữu Dật thì đóng quân ở xã Đại Đan.

Nguyễn Hữu Dật sai quân lính chặt cành cây, giữ nguyên lá. Cứ mỗi tên lính lại kéo hai cành, đi qua đi lại, khiến bụi bốc mù trời. Hữu Dật còn sai treo cờ trên cây. Cờ bay theo gió. Từ xa trông vào không khác gì có trăm vạn quân Tào. Hữu Dật còn cho quân lính hoặc xuất hiện ở phía đông rồi biến mất ở phía Tây, hoặc đi sang hướng Nam rồi lại vọt lên hướng Bắc, để làm nghi binh.

Bấy giờ quân do thám báo với Trịnh Căn rằng:

– Quân Nam còn chiếm cứ xã Đại Đan.

Trịnh Căn hỏi:

– Danh tướng là ai? Binh mã bao nhiêu?

Quân lính bẩm:

– Quân quả không nhiều. Chưa biết là viên tướng nào.

Trịnh Căn bèn sai Dĩnh quận công dẫn 5.000 quân tới Đại Đan. Giữa đường lại có thám mã về báo cho quận Dĩnh:

– Tướng Nam chiếm cứ xã Đại Đan là Đốc chiến Chiêu Vũ!

Quận Dĩnh nghe danh Hữu Dật, đã hơi dè chừng. Ngẩng đầu nhìn lên, lại thấy bụi bốc khắp nơi, quận Dĩnh nghi có phục binh, nhưng chẳng biết là ít hay nhiều. Giữa lúc đó, lại thấy cửa biển Ròn ở sau lưng có lửa bốc lên. Quận Dĩnh cả kinh, tưởng mình trúng kế phục binh, vội đem quân rút chạy. Nguyễn Hữu Dật nghe tin thì vỗ tay cười.

Cai cơ Trương Phước Hùng trông thấy lửa hiệu, liền vâng lệnh rút quân. Nguyễn Hữu Dật cũng dẫn quân bản doanh lui về phía nam sông Gianh, tới đóng ở xã Hỷ Duyệt.

Chúa Hiền được tin các đạo đã rút về hết, bèn sai Tướng thần lại Tú Lâm bưng vàng và tiền, lụa tới các doanh ban thưởng cho từng người, và khao thưởng ba quân. Chúa Hiền còn truyền khẩu dụ rằng:

Chúa thượng gửi lời đến các ông, bảo rằng: Quân thần hội họp, trên dưới đồng lòng, muốn một lần cử sự mà thành công. Có điều thời cơ chưa đến. Nên dưỡng quân, nuôi nhuệ khí, huấn luyện cho tinh thục. Nay việc đã như thế, đợi sau sẽ lại mưu đồ. Sớm muộn cũng áo gấm về làng, để rỡ ràng đời trước. Các ông nên ghi ở trong lòng, chớ được lơ là”. 

Chúa Trịnh Tạc cũng sai đại thần bưng sách vàng tới quân thứ, phong cho Trịnh Căn làm Khâm sai Tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh, kiêm Tổng chính bính, Thái úy, tước Nghi quốc công, mở phủ Lý Quốc, ban cho ấn bạc. Đó là hành động chính thức công nhận địa vị Thế tử của Trịnh Căn.

Tháng Giêng năm Tân Sửu [1661], niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 4, chúa Hiền phong cho Nguyễn Hữu Dật làm Trấn thủ dinh Bố Chính, thay cho Phù Dương. Nghi quốc công Trịnh Căn cũng đã sửa sang phòng thủ biên giới xong xuôi. Đến tháng Hai, Trịnh Căn để lão tướng Đương quận công Đào Quang Nhiêu ở lại làm Trấn thủ Nghệ An, đóng đồn ở dinh Hà Trung xã Kỳ Hoa. Trịnh Căn quay về kinh đô. Tháng Ba, Trịnh Căn về tới kinh đô. Chúa Trịnh Tạc khen rằng:

– Xông pha sương tuyết nhiều năm, tiễu trừ nghịch tặc, thu phục bờ cõi, không phụ sự ủy thác nặng nề.

Đến tháng Tư, chúa Trịnh Tạc tiến hành luận công ban thưởng. Lê Thì Hiến đứng đầu, được phong Phó tướng, Thiếu úy, mở doanh gọi là Tả Trung quân, được ban ấn của doanh. Những người khác cũng được ban thưởng.

Cuộc Bắc phạt kéo dài gần sáu năm, từ năm 1655 đến năm 1660 của chúa Hiền Nguyễn Phước Tần cuối cùng cũng kết thúc. Hai bên quay trở lại điểm xuất phát. Quân Nguyễn bắt giữ một số cư dân Đàng Ngoài đưa vào Đàng Trong, và cho họ khai khẩn những vùng đất mới. Trong số này, có một người dân xã Thái Lão, huyện Hưng Nguyên, được đưa tới phủ Quy Nhơn. Đó chính là tổ tiên của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ.

Chúa Trịnh Tạc có thể tuyên bố mình là người thắng trận. Ông cảm thấy đây chính là thời cơ chúa Nguyễn suy yếu, là dịp tốt để thống nhất nước nhà. Tháng Mười nhuận năm đó [1661], chúa Trịnh Tạc phò vua Lê Thần Tông Nam chinh, phong Thế tử Nghi quốc công Trịnh Căn làm Tiết chế, chỉ huy thủy quân; Thiếu úy Đào Quang Nhiêu làm Thống suất, Thiếu úy Lê Thì Hiến, Tả đô đốc Hoàng Nghĩa Giao đều làm Đốc suất, dẫn ba đạo bộ binh tiến đánh Đàng Trong. 

Thắng bại rốt cuộc sẽ ra sao? Hãy đón xem tại Cổ chiến trường.

Chia sẻ câu chuyện này

Tác giả: Wong Trần
Minh hoạ: Minh Thảo Võ
Thiết kế và dàn trang: TRẦN VĂN HẬU

Share