Nguyễn Hiệu mở lời cứu Thế tử Trịnh Giang hặc tội phế Lê hoàng
Tham tụng Sóc quận công Nguyễn Công Hãng nghe tin chúa Trịnh Cương qua đời, liền họp các quan ở Đô đường, vạch lỗi Thế tử Trịnh Giang, muốn đón lập con thứ. Các quan chưa biết trả lời làm sao. Chợt có người lên tiếng đáp trả rằng:
– Thế tử có lỗi gì đâu! Tiên vương nói đó là để cho Thế tử gắng sức tốt hơn. Chớ nên khinh thị bàn đến việc đó!
Mọi người trông ra, thì là Đô ngự sử Nguyễn Hiệu. Nguyễn Hiệu người làng Lan Khê, huyện Nông Cống (Thanh Hóa), đỗ Tiến sĩ năm 1700. Lúc chúa Trịnh Cương còn làm Thế tử ở phủ Dực Quốc, Nguyễn Hiệu được mời làm gia khác. Khi Trịnh Cương lên ngôi, Nguyễn Hiệu cũng được chúa thăng làm Hình khoa Đô cấp sự trung, rồi về sau làm đến chức Bồi tụng, lại giữ chức Tư giảng cho Thế tử Trịnh Giang. Nguyễn Hiệu là thầy dạy của Thế tử. Vì thế mới lên tiếng trước để bảo vệ.
Các quan được lời của Nguyễn Hiệu, cũng lên tiếng không đồng tình với Nguyễn Công Hãng. Thế tử Trịnh Giang bèn chính thức tiếp nhận ngôi chúa.
Tháng Tư năm sau [1730] là năm Vĩnh Khánh thứ hai, Trịnh Giang từ chức Thái úy, Thịnh quốc công, tự tiến mình lên làm Nguyên soái Tổng quốc chính Uy Nam vương; tôn bà ngoại là Thái phi Trương thị làm Thái tôn thái phi, mẹ là Chiêu viên Vũ thị thì được tôn làm Thái phi. Lúc này Trịnh Giang vừa 19 tuổi.
Chúa Trịnh Giang lúc này vẫn còn tin dùng Nguyễn Công Hãng, nhưng cũng dần dần bãi bỏ một số chính sách của ông này. Trong bốn năm đầu tiên Trịnh Giang cầm quyền, giữa chúa và tôi không có xung đột gì gay gắt.
Chúa Trịnh Giang vốn đang nhắm vào Vĩnh Khánh hoàng đế. Vĩnh Khánh đế tên là Lê Duy Phường, con thứ của vua Lê Dụ Tông. Lúc đầu, Lê Dụ Tông lập con trưởng là Duy Tường làm Thái tử. Nhưng Duy Tường là do cung nhân Trần thị sinh ra. Chúa Trịnh Cương ép vua Dụ Tông phế đi, mà lập Duy Phường làm Thái tử. Mẹ của Duy Phường là Trịnh Thị Ngọc Trang – cháu gái chúa Trịnh Căn, trưởng nữ của Đề quận công Trịnh Nhuận. Vợ của Duy Phường là Đoan Minh quận chúa Trịnh Thị Ngọc Nhiên, con gái chúa Trịnh Cương. Thái thường Tự khanh là Bùi Sĩ Tiêm sau này thừa nhận việc phế lập khiến vua Lê Dụ Tông không vui, thường buông lời nói về chuyện đó. Năm 1729, vua Dụ Tông nhường ngôi cho Thái tử Duy Phường để lên làm Thái thượng hoàng, ra ở cung Càn Thọ. Đến năm 1731 thì Thái thượng hoàng băng.
Sử sách của triều đình chúa Trịnh biên soạn chê Vĩnh Khánh đế “lúc đang cư tang, nết xấu càng rõ”. Đại thần là Tuyên Trung công Trịnh Quán (con trai chúa Trịnh Tạc) khuyên Trịnh Giang “làm việc quyền biến để yên xã tắc” – tức là làm việc phế lập. Bấy giờ Tả thị lang Tô Thế Huy giỏi về chiêm tinh, lại được vào Kinh diên hầu giảng sách cho vua Vĩnh Khánh. Tô Thế Huy đem sách âm dương dâng lên cho Vĩnh Khánh đế. Việc này lộ ra. Các đại thần phe chúa Trịnh chỉ trích Thế Huy là “bề tôi giảng dạy vua mà dựa dẫm phụ họa, không biết giúp vua về đạo đức”. Tô Thế Huy bèn bị biếm chức, đưa ra ngoài làm Thừa chánh sứ trấn Yên Quảng.
Trịnh Giang sau đó sai người tâu với Vĩnh Khánh đế nên biết sửa lỗi, bảo vua phải tạm lánh khỏi chính điện, ra ở cung bên cạnh. Số đồ cung cấp cho vua dùng trong nội điện cũng bị cắt giảm. Trịnh Giang còn trách Thái hậu Trịnh thị làm mẹ mà không biết răn dạy vua, nên giáng Thái hậu xuống làm Quận quân.
Cuối cùng, chúa Trịnh Giang cáo buộc Vĩnh Khánh đế có quan hệ bất chính với Kỳ Viên phi. Kỳ Viên là khu vườn trong phủ chúa Trịnh Cương. Vì sủng phi của Trịnh Cương ở trong vườn đó, nên người đời gọi là Kỳ Viên phi. Phạm Đình Hổ nói Kỳ Viên phi họ Đặng, người Trà Đổng huyện Tiên Du. Nhưng lại có sách nói bà họ Nguyễn, lại có sách nói bà người xã Hoài Bão, huyện Tiên Du. Điều ta có thể biết là huyện Tiên Du không có xã Trà Đổng, nhưng lại có Trà Hương thuộc làng Phù Đổng là nơi sinh Tuyên phi Đặng Thị Huệ thời chúa Trịnh Sâm. Cũng có thể Kỳ Viên phi là người họ Đặng ở Trà Đổng. Chúa Trịnh Cương rất sủng ái bà. Khi đi tuần du, chúa cũng thường đưa bà theo. Trịnh Giang buộc tội Vĩnh Khánh đế tư thông với Kỳ Viên phi, phế Vĩnh Khánh đế làm Hôn Đức công, sai ra ở nhà bên ngoài. Trên thực tế, người tư thông với Kỳ Viên phi dường như là Trịnh Giang. Chuyện này về sau vỡ lở, Vũ thái phi Vũ Thị Ngọc Nguyên bắt Kỳ Viên phi tự tử. Nhưng đó là chuyện sau này.
Không lâu sau khi phế đế, Trịnh Giang sai người thắt cổ Vĩnh Khánh đế. Vĩnh Khánh đế làm vua được bốn năm, lúc chết mới 28 tuổi. Bấy giờ là tháng Tám năm Vĩnh Khánh thứ 4 (1732).
Trịnh Giang họp các quan ở phủ chúa, bàn chuyện chọn vua mới. Giang sai đưa 12 người con trai của Lê Dụ Tông tới để xem mặt. Trịnh Giang chọn con trưởng là Lê Duy Tường để làm hoàng đế. Đó chính là Lê Thuần Tông. Rốt cuộc ngôi vua trở lại với Duy Tường. Trịnh Giang thì tự tiến mình làm Đại nguyên soái, Thống quốc chính, Thượng sư, tước Uy vương.
Nhờ việc phế lập này, Trịnh Giang gia phong Trịnh Quán làm Quốc lão. Nguyễn Công Hãng được thăng Thái bảo. Nguyễn Hiệu được thăng Thiếu phó. Cả ba đều được ban hiệu là Tá Lý công thần.
Chẳng bao lâu sau, chúa Trịnh Giang phát hiện tờ khải cũ của Nguyễn Công Hãng. Trong tờ khải chỉ trích mình không xứng kế ngôi chúa. Trịnh Giang bèn ghi lòng. Lại có người nói với chúa rằng Nguyễn Công Hãng cùng với Lê Anh Tuấn, Trương Nhưng và Đỗ Bá Phẩm từng âm mưu thay đổi Thế tử. Tháng Mười năm đó [1732], Trịnh Giang cho Lê Anh Tuấn ra ngoài làm Đốc trấn Lạng Sơn, còn Trương Nhưng thì đi trấn Nghệ An.
Bấy giờ ở kinh đô có một thầy bói chiết tự hiệu là Cổ Quái bốc sư. Không rõ tên họ ông ta là gì. Người đời chỉ gọi là thầy Nghếch. Một hôm, thầy Nghếch vào yết kiến Nguyễn Công Hãng. Nguyễn Công Hãng viết mấy chữ: “Thập nhị nguyệt hoa tàn”, để nhờ bói giúp. Thầy Nghếch khuyên Công Hãng:
– Nên xử sự theo lối “cấp lưu dũng thoái”.
“Cấp lưu dũng thoái” là ý nói gặp dòng nước xiết (cấp lưu) thì nên dũng cảm thoái lui. Ý thầy Nghếch khuyên Công Hãng nên từ quan để tránh nạn. Công Hãng im lặng không nói gì.
Ngày 25 tháng Mười một, các quan văn võ cùng dâng khải hặc tội Nguyễn Công Hãng. Tờ khải nói:
“Hãng là huân cựu đại thần mà không giữ phận, dám làm việc sai trái: táng mả vào kiểu đất cửu long, chiếm lập sơn trang, chiêu mộ nuôi dưỡng những đứa vô lại, âm mưu cùng nhau nắm giữ quyền hành. Cho nên dư luận sôi nổi cho là trái đạo làm tôi, nên kết tội giảo (thắt cổ) cho nghiêm phép nước. Hai chỗ thổ trạch mới lập cùng nhà ở nên tịch thu nhập vào của công, chỗ mả táng phải đào đem đi nơi khác”.
Không biết tính mạng Nguyễn Công Hãng sẽ ra sao?
Chia sẻ câu chuyện này
Tác giả: Wong Trần Minh hoạ: Minh Thảo Võ Thiết kế và dàn trang: TRẦN VĂN HẬU