[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 140: Chợ của Đào Giếng

[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 140: Chợ của Đào Giếng

Kỳ trước Tức tối vì bị Đao Phủ Lâm Gia cướp hết vườn Thanh Long Đầu Lâu, Cá Ba Gô quyết định đưa cho Vy bảo vật gia truyền xương đầu lâu trâu trắng Ngưu Bao để đối phó với đám Long Đế. 

Chia tay Cá Ba Gô kèm theo lời hứa đánh dằn mặt đám Long Đế, bọn tôi qua phà từ cồn Lục Sĩ Thành, vào Trà Ôn, đi ngược về đường tỉnh 907 để hướng về Trà Vinh, nơi có địa danh Chợ Xẻng mà Vy vừa nói. Thú thực lòng tôi hồi hộp ý vô cùng. Thuở bình sinh đến giờ, chuyện bùa ngải thư ếm, tôi nghe vô số, đến tận bây giờ mới trải nghiệm, tận mục sở thị được cách người trong nghề hoạt động ra sao, giờ lại còn được đi xem “chợ” của họ, dĩ nhiên không thể kìm được sự phấn khích!

Như đã biết, thân thế thực sự của ông tôi khiến tôi vô cùng tò mò, chỉ muốn biết vai vế ông trong lục lâm là gì, để sau này đi ra đường gặp đồng đạo còn nở mày nở mặt, ngặt nỗi hỏi hoài không ai biết. Nay đi chung với Vy, tôi hy vọng rằng sẽ có người biết đến ông tôi, để tôi hỏi một vài câu chuyện chứ cũng không gì khác. Vy nói tôi mới biết một số điều thú vị về lục lâm. Ví dụ như nơi để lục lâm mua những thứ đồ của họ. Hàng thịt là thợ chế tác theo yêu cầu riêng biệt, những món vặt vãnh hay nguyên liệu, từng nhánh lục lâm vẫn phải đi chợ tự mua mà thôi.

Nói về chợ riêng, trong lục lâm, chỉ có thả diều là không có chợ. Cũng phải thôi, làm gì có nơi nào để họ đem bán những con cá sấu to như cái xuồng, hay con rắn dài hơn chục mét, đầu to như cái bàn, đó lại là bồ câu của họ. Thả diều ở từng khu vực thì thu phục những con vật ở tại địa điểm đó để làm bồ câu, cũng có thể đem nơi khác đến. Vy nói, không phải bồ câu nào cũng to vật vã, nếu có dịp gặp lại Hạo, anh ta sẽ dùng kiến làm bồ câu cho bọn tôi cũng được!

Đập miễu và săn lan cũng có nơi họp chợ, do đặc thù hai giới này công việc thường đi đôi với nhau, nên chợ cũng họp chung. Chợ này luôn có quy tắc, nằm trong khu chợ của người Hoa tại địa phương đó, đi từ cổng chính chợ vào đến gần trung tâm thì rẽ phải, sau đó rẽ trái. Tiệm thường được ngụy trang, bên trong là tiệm thuốc Bắc, có bày một số bàn ăn cơm nhếch nhác, trước cửa thì treo bán liềm, lư hương, nhang theo thứ tự từ trái qua phải từ ngoài nhìn vào, mặt trong của cửa ra vào luôn có một cái gương, ngụ ý là: “Có bán cái mạng mới có cơm ăn, có cơm ăn rồi mới có cuộc sống khỏe mạnh”, khi quay ra thì hàm ý ngược lại: “Đang khỏe mạnh, nên nhớ vì chén cơm mà phải bán cái mạng, hẹn gặp lại đồng đạo” như là lời chúc thuận buồm xuôi gió. Tại sao đồ của săn lan và đập miễu thường bán chung trong chợ của người Hoa? Vì thứ nhất, những đồ dùng của hai giới này nhìn vào cũng khá giống với người thường: dao, rựa, dây, vàng mã, nhang, đèn cầy, vân vân. Thứ hai là Chợ người Hoa có tính liên kết cao, vẻ thần bí dễ ngụy trang khi bán những thứ kỳ lạ.

Đối với đào giếng thì có hẳn một khu chợ nằm biệt lập với khu dân sinh, lý do đơn giản rằng thứ dùng để tạo ra bùa ngải, lục ngữ gọi là “trời mưa”, nào có phải thứ dễ nhìn, làm sao bán chung chợ với người thường cho được. Chợ Xẻng chính xác không phải là địa danh, mà là ám chỉ nơi bán đồ cho đào giếng. Vy nói, ở miền tây có sáu Chợ Xẻng lớn, nằm ở Tân An, Mỹ Tho, Sa Đéc, Châu Đốc, Hòn Đất, và Châu Thành (Trà Vinh). Trong đó, Chợ Xẻng Châu Thành là chợ lớn nhất trong các chợ lớn, gọi dễ hiểu là chợ đầu mối, vậy nên Vy mới phải cất công đến tận đây mua, bên cạnh đó từ Châu Thành đi Lưu Cừ cũng không xa.

Còn tại sao gọi là Chợ Xẻng chứ không phải chợ gì đó khác, có lẽ là vì, xẻng dùng để đào giếng chăng?

Chợ đầu mối đào giếng nằm ở Trà Vinh mà không phải là ở những địa phương biên giới với Cam đều có lý do cả. Đó lại là một câu chuyện lịch sử. Như đã biết, vào những năm 1700, một nhóm người di dân, theo chân Mạc Cửu lẩn trốn nhà Thanh đã đem đến cho lục lâm một nhánh mới, gồm những thầy phong thủy, vốn là những người bị nhắm đến cho việc xây lăng mộ hoàng tộc. Việc xây lăng không hề đơn giản, thậm chí là nguy hiểm tính mạng, giết người diệt khẩu để bảo vệ kho tàng là không hiếm. Nhóm người này ngoài miệng nói rằng chống nhà Thanh, thực ra chỉ muốn giữ mạng mà thôi. Khi cập bến Hà Tiên, họ tiếp xúc với một thứ phong thủy rất khác, lý thuyết vẫn căn cứ trên âm dương, nhưng ngoài ra còn bị ảnh hưởng bởi quỷ thần. Rất nhiều thầy ngải, thầy luyện thiên linh, do bị truy sát tận Miến Điện, Xiêm La, Nam Vang, bỏ chạy qua miền Nam rất nhiều. 

Vào những năm 1700, miền Nam bị chia nhỏ ra rất nhiều vùng lãnh thổ, được kiểm soát bởi những thế lực khác nhau. Khi đó, vùng Hà Tiên – An Giang, tuy lý thuyết vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Mạc Cửu, nhưng chuyện chính quyền họ Mạc bắt một vài tử tù Nam Vang hay Miến Điện giao cho chính quyền bên kia biên giới để giao hảo không có gì lạ, nên nhóm thầy ngải không chọn dừng chân ở vùng này, mà tiếp tục di chuyển đến Trà Vinh. Từ Trà Vinh có thể chạy ra nhiều đường, dễ nhất là vượt biển, đón gió, đi xuống các đảo phương Nam, thêm nữa là Trà Vinh là vùng đất trung lập lúc bấy giờ. 

Vùng Trà Vinh từ xưa có rất nhiều cộng đồng người Khmer sinh sống, làng ấp chùa chiền vô số, những thầy ngải lẩn trốn đến vùng này ẩn cư không khó để hòa nhập. Nhóm thầy ngải định cư ở Trà Vinh đặc biệt thu hút nhóm thầy phong thủy ở Hà Tiên. Cả hai tạo thành một hệ thống hỗ trợ nhau rất hiệu quả. Thầy phong thủy cần phương thức trấn yểm đặc thù của vùng đất mới. Thầy ngải cần cách hoạt động mới để che mắt chính quyền. Cả hai dần thống nhất, đi đến tên gọi đào giếng như sau này đã biết.

Tôi sực nhớ lại thắc mắc của mình, vì lục lâm trước giờ đều có cách hành xử riêng của mình, vậy trong trường hợp đào giếng muốn dùng ngải, thì ngải ấy là thứ gì? Vy nói, thường nghe rằng nguyên bản thân cây ngải thì nó chỉ đơn thuần là một loại cây thảo mộc, nhưng khi được một pháp sư hô thần và truyền cho nó thì nó mang công năng đặc biệt, có thể giúp trừ tà, trị bệnh, cầu tài.

Cây ngải dân gian tương truyền thì có nhiều kích cỡ, nhưng chủ yếu là có lá dẹp, dài, mỏng như chỉ, ít khi ra hoa, có củ, củ to hay nhỏ tùy vào chức năng. Đào giếng thì khác, trong mắt đào giếng, bất kỳ loài cây nào cũng có thể luyện thành ngải. Cây cũng có sự sống, có máu thịt của riêng nó, quan trọng là đào giếng dùng đạo hạnh bản thân, đánh thức được linh tính của cây, ban cho nó sự sống, để từ sự sống của nó sẽ giúp “cưu mang” một linh hồn khác, thường là âm binh, quỷ dữ.

Nói về chuyện ma quỷ trốn trong cây cối thì nhiều. Dân gian truyền rằng: “Chuối che, tre đóng, còng chui” là vì vậy. Ba loài cây đó hút thu âm khí mạnh, kiềm tỏa bên trong, dương khí khó lòng xâm nhập, vậy nên ma quỷ trú ngụ cũng không ít. Chuối có tán lá rộng, che được; tre tựa như hàng rào dày đặc, đóng chặt, bảo vệ ma quỷ; còng chui tức là âm khí trú tại thân cây, dưới các vòm lá.

Ngải trong ngôn ngữ của đào giếng tức ám chỉ một loại thực vật bất kỳ, đã được đánh thức linh tính, tiềm ẩn âm khí ma quỷ âm binh bên trong, cho chúng nơi trú ngụ, để sai sử khi cần thiết. Đào giếng khi nuôi ngải đủ mạnh, sẽ làm lễ “cắt nước”, là lục ngữ, tức là họ sẽ cắt một phần thân cây đã được nuôi ngải, để vào hoặc là bình chứa, hoặc là bùa, hay như một số đào giếng thích cách là để dưới đầu ngón tay. Thực ra công dụng thì như nhau, tùy trường hợp thì làm khác, ví như để đánh nhau thì nhét vào đầu ngón tay, làm bùa thì gói vào giấy, trấn yểm thì bỏ vào bình, vân vân.

Lại kể về chuyện cây cỏ nuôi ma. Ngày tôi còn bé, độ lớp hai, ba, lần ấy xóm tôi có một vụ tai nạn thương tâm. Một chú kia do đường trơn, xe bị trượt, văng xa hơn hai mươi mét, đầu đập vào cây dừa gần đó, chết tại chỗ, da đầu bong ra một mảng dính vào bụi chuối kế bên. Bảy ngày sau, tầm chín giờ khuya, một ông bán bánh mì đang lững thững đạp về, đi ngang đoạn đường vắng tự dưng lưng lạnh như ướp đá, nghe bên kia đường có tiếng người gọi: 

– Ông anh ơi, lấy tôi bảy ổ bánh mì, đói quá!

Ông bán bánh mì quay lại nhìn thì thấy gần đó có nhà sáng đèn, đinh ninh là người gọi vừa mới quay đi vào nhà lấy tiền, vì tiếng kêu rõ mồn một, ông bán bánh lấy ra bảy ổ, vừa nói đùa: 

– Ăn gì mà dữ vậy hia?

Từ bụi chuối, tán lá lay động, giọng nói ấy lại vang lên: 

– Đói quá, bảy ngày nay tui đâu có ăn gì đâu!

Ông bán bánh mì quay lên nhìn thì sợ đến té đái: mặt dưới tàu lá, sống lá bị tách ra bởi đôi bàn tay tím ngắt, vừa đủ chỗ một cái đầu không còn da thò ra ngoài, nhìn mình chằm chằm. Ông bán bánh mì sợ quá, dù té đái nhưng vẫn bò vào nhà gần đó, kêu khóc. Chủ nhà mới ra hỏi chuyện, ông bán bánh mì kể lại đầu đuôi thì chủ nhà nói rằng hôm nay là đợt cúng bảy ngày, ông bị chết kia còn quyến luyến dương gian nên về thăm. Khi ra xe xem lại thì quả nhiên bảy ổ bánh mì đã bị thiu, mốc lên xanh rì, trong rổ xe toàn là giấy tiền vàng bạc.

Đấy chỉ là chuyện kinh điển, còn những khi xóm tôi đốn hạ những cây lớn, nhất là cây bần, cây gừa, lúc nào cũng nghe tiếng hét vang lên, mủ cây không hiểu sao lại đỏ như máu. Chuyện ấy khi khác tôi sẽ kể.

Xe chúng tôi đến địa phận huyện Châu Thành, Vy bảo tôi chạy chậm lại để tìm đường, vì thú thật cô cũng không biết Chợ Xẻng nằm ở chỗ nào, nhưng có thể tìm được bằng dấu hiệu. Thì ra dấu hiệu đó là con sông. Chợ Xẻng nằm ở đâu thì sẽ căn cứ vào con sông chính tại địa phương đó, lần theo lên đầu nguồn, nơi sông có ngã ba, đứng nhìn về hướng Đông, bên tay phải sẽ có con đường dẫn, khi vào đường dẫn, tìm tiếp con kênh thứ ba tính từ đầu đường dẫn, đối diện con kênh này là địa điểm có Chợ Xẻng. “Cổng” Chợ Xẻng lúc nào cũng có một cái chum không có nước, đáy chum thủng một lỗ to bằng cái gáo dừa.

Tôi nghe xong thì phì cười, hỏi rằng lỡ những đặc điểm đó bị thay đổi do con người, ví dụ sông đổi dòng thì sao. Vy nói nếu vậy thì Chợ Xẻng sẽ đổi theo, miền Tây kênh rạch nhiều, thế nào áp dụng khẩu quyết tìm đường đó cũng đúng thôi. Tôi ngẫm lại, quả thật, miền Tây mà không còn kênh rạch, chắc khi đó mặt trời mọc đằng Tây rồi cũng nên.

Theo lời chỉ dẫn của Vy, xe chúng tôi rẽ vào con đường đất, hai bên là những hàng bạch đàn cao, tán rợp trên đầu, che kín nắng, gió từ con sông chính thổi lên mát rượi, làm tôi nhớ đến hồi nhỏ, những ngày hè vẫn thường nằm võng phía sau nhà, gió cũng mát thế này. Khoan khoái lạ thường. Giờ con sông sau nhà tôi nước đen đặc, váng dầu máy, lục bình, rác, làm nó bốc mùi kinh khủng.

Tôi sực nhớ lại một số chuyện, liền hỏi Vy. Đó là về cách chiến đấu của đào giếng. Săn lan và đập miễu, thủ theo một thân võ nghệ đã đành, lại có hệ thống hơn cả ngàn bài Chú, tùy nghi mà sử dụng khi gặp trường hợp. Tôi thấy Vy khi giao chiến hay đọc một số câu khá kỳ quặc, mà Tú Linh có lúc giải thích rằng là một quẻ của Kinh Dịch, vậy thực hư là sao?

Vy nói, đào giếng có hai thứ lúc nào cũng gắn bên mình, một là ngải, hai là bùa. Không giống với tưởng tượng của nhiều người, hoặc một số trường phái thầy bùa thầy ngải khác, đào giếng không đựng bùa và ngải trong một cái túi vải, đeo bên hông, mà chính xác là “để trong người” theo đúng nghĩa đen.

Đầu tiên nói về bùa. Bùa, theo định nghĩa của đào giếng, dễ hiểu nhất, nghĩa là một hợp đồng của thầy đào giếng và một cộng đồng âm binh nhất định. Âm binh này từ đâu mà có? Một là đào giếng tự đi săn, săn ở các khu vực núi sâu, rừng thẳm, vực chết, những nơi tử địa xưa kia từng có giao tranh, hoặc là sa trường trận mạc, oan hồn bất tán rất nhiều. Đào giếng thu về, dùng bí thuật, lập giao ước, gói gọn trong một mảnh bùa bằng giấy Cốt Chỉ, loại giấy làm từ xương người, viết bằng nước Oa Hãn, là mồ hôi cóc. Mỗi một lá bùa, tùy theo “hợp đồng” mà chứa được ít hay nhiều âm binh, lại tùy theo độ mạnh yếu của âm binh, hay nói cách khác là oán khí của âm binh! 

Mỗi khi Vy sử dụng một tấm bùa, lượng âm binh tương ứng sẽ được giải phóng, phục vụ yêu cầu của Vy, đổi lại là khi dứt đòn ấy, âm binh sẽ được siêu thoát. Vào thời kỳ đào giếng, hay nói chung là bùa ngải bị cấm đoán, đào giếng không thể đem cả xấp bùa giấy đi nghênh ngang được, nên họ tạo ra một cách, là giấu bùa dưới da, khi cần dùng thì kéo ra. Tôi không hình dung được? Rạch da, kéo bùa ra hay sao? Vy nói, chuyến này đi Vy biểu diễn cho xem, khá khó để diễn tả.

Tiếp theo là ngải. Khi nãy Vy đã nói về ngải, lần này sẽ nói cụ thể hơn, vì để nuôi ngải được thì cần có nguyên liệu. Đào giếng có một số nguyên liệu để nuôi ngải lát nữa vào Chợ Xẻng, Vy sẽ cho xem. Có tám loại tương ứng với Bát Quái của Kinh Dịch, chính là cách đào giếng bày trận đánh nhau. Lại nói đến chuyện Vy hay dùng các đầu ngón tay chạm vào nhau khi giao chiến, đó là “bắt Quẻ”, nôm na như bắt Chú của săn lan hay đập miễu vậy. Bỏ hai ngón cái của hai tay ra, còn tám ngón, đặt hai bàn tay ngửa ra, sát vào nhau, có Bát Quái, bắt đầu từ ngón áp út tay phải, đi theo chiều kim đồng hồ, lần lượt là Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Cấn, Khảm, Ly, Đoài, chính là Bát Quái của Kinh Dịch. Từ Bát Quái này, cho một tổ hợp hai của tám sẽ ra sáu mươi bốn Quẻ, là những thứ mà Vy hay hô khi đánh nhau, sau đó tùy theo mức độ ra đòn mà sẽ chọn những cách vận khí như Tách, Quải, Sát, vân vân.

Quy tắc bắt Quẻ là để hai đầu ngón tay có chứa hai Quái sẽ tạo thành Quẻ đó chạm vào nhau, theo thứ tự hệt như sắp xếp Quẻ của Kinh Dịch. Ngón đặt trên là Ngoại Quái, ngón dưới là Nội Quái.

Ví dụ như Quẻ mà Vy dùng để chặn Sinh là Thiên Thủy Tụng. Quẻ Tụng này có Nội Quái là Khảm, nghĩa là nước, Ngoại Quái là Càn, tượng của trời. Đào giếng bắt Quẻ Tụng thì dùng đầu ngón trỏ tay trái (ngón của Quái Khảm) đặt lên trên đầu ngón áp út tay phải (ngón của Quái Càn). Trong Kinh Dịch có một quẻ ngược lại với Thiên Thủy Tụng, là Thủy Thiên Nhu, tức là Nội Quái lại là Càn, Ngoại Quái là Khảm, khi ấy đào giếng muốn bắt Quẻ Nhu thì dùng ngón áp út tay phải đặt lên trên đầu ngón trỏ tay trái. Cứ như vậy với các Quẻ khác.

Đầu ngón tay của đào giếng luôn được rạch da, nhét nguyên liệu vào bên trong, khi bắt Quẻ thì hai thứ nguyên liệu ấy kết hợp lại, dùng khí để ngưng kết, dùng lực để đẩy ra, chung quy đều dùng thứ âm nuôi dưỡng trong người để tấn công.

Vấn đề về Kinh Dịch, có nói đến mai cũng chưa hết, nên Vy bảo tôi cứ từ từ xem em ấy biểu diễn, tự khắc sẽ hiểu được.

Tôi lúc này đã như vịt nghe sấm, ù ù cạc cạc, chỉ “Ừm!” một tiếng rồi tiếp tục chạy xe. Đến con kênh thứ ba, trời đã về chiều muộn. Gần sáu giờ tối. Chỗ con kênh này cũng may có chiếc cầu bắc qua bờ đối diện, lòng tôi bắt đầu dâng lên một nỗi phấn khích vì sắp được tận mục sở thị một cái chợ của dân bùa ngải lục lâm. Đến khi tôi thấy cái chum bể, tôi mới ngỡ ngàng trước khung cảnh đập vào mắt mình, là một nghĩa địa dân sinh rất lớn. Rộng dễ đến một công đất! Toàn mả là mả, dường như nơi này đã là nghĩa địa từ rất lâu rồi mới có nhiều mả như vậy, nhìn vẻ cũ kỹ bên ngoài cũng thấy được điều đó. Chúng tôi xuống xe, đậu lại ngay ngắn, Thông hỏi: 

– Sao em gái, giờ tính sao?

Cuối cùng Vy cũng dừng lại ở một nghĩa địa dân sinh rộng lớn. Đây có phải là Chợ Xẻng của dân Đào Giếng trong truyền thuyết? Mời đón đọc kỳ sau.

Nếu yêu thích các câu chuyện tâm linh và kỳ bí, mời bạn tham gia Xóm Sợ Ma.

Chia sẻ câu chuyện này

Minh họa : Minh Thảo Võ

Thiết kế :
Trần Văn Hậu

Share