Bí ẩn 800 năm về nơi yên nghỉ của Thành Cát Tư Hãn

Tác giả La Gia Thịnh
Bí ẩn 800 năm về nơi yên nghỉ của Thành Cát Tư Hãn

‘Ta sẽ chết, nhưng dân tộc này sẽ trường tồn!’. Đến giờ nhiều vẫn tin rằng đây là những lời được chính Thành Cát Tư Hãn nói khi còn sống. Vế sau của câu nói này đã đúng, như ý nguyện của ông, chiến công hào hùng và sử tích lẫy lừng của vó ngựa Mông Cổ đã được tạc vào từng trang sử. Nhưng vế còn lại lại ẩn chứa muôn vàn những bí ẩn và giai thoại xung quanh nó. Đến tận ngày nay, nhiều người vẫn còn mãi bàn cãi về sự ra đi của Đại Hãn. Quan trọng hơn là hậu thế vẫn miệt mài giải mã về bí ẩn 800 năm xoay quanh nơi yên nghỉ cuối cùng của một trong những danh tướng thành công và kỳ vĩ nhất mà nhân loại từng chứng kiến.

Thời kỳ cực thịnh, đế quốc Mông Cổ (lúc này đã thôn tính xong Trung Hoa) đã lãnh đạo một vùng đất rộng đến 23 triệu cây số vuông, từ Địa Trung Hải ở phía Tây đến biển Nhật Bản ở phía Đông. Lịch sử đã ghi nhận đây là vùng đất liên tục to lớn nhất mà một đế quốc từng cai trị. Quá khủng khiếp! Đó là điều mà ai cũng biết, nhưng kỳ thực, dấu tích về người trực tiếp tạo nên sự kỳ vĩ của đế chế Mông Cổ – danh tướng, thiên tài quân sự, huyền thoại Thành Cát Tư Hãn vẫn cứ mãi là một bí ẩn kinh điển của nhận loại, một câu chuyện đã được chôn vùi theo thời gian, dưới những lớp đất của thảo nguyên Mông Cổ rộng lớn.

Theo nhiều sử liệu, dù là người có quyền hạn và vị thế gần như ‘độc tôn’, Đại Hãn là một người có lối sống khép kín không khoa trương. Điều đó phần nào giải thích cho việc tại sao ông (và cả những người dưới trướng) đều cố gắng ‘chôn vùi’ bí ẩn về sự ra đi của mình..

Chân dung Thành Cát Tư Hãn (1162 – 1227). Ảnh: Atlasobscura.com

Thuở thiếu thời, trước khi cầm gương cưỡi ngựa và lãnh đạo quân Mông Cổ, cậu bé Temujin sinh ra và lớn lên tại vùng sơn cước hẻo lánh bên chân núi Burkhan Khaldun, một đỉnh núi thiêng thuộc Đông Bắc Mông Cổ ngày nay. Không gian linh thiêng và khắc nghiệt của Burkhan Khaldun đã góp phần nuôi dưỡng tinh thần và tạc nên sự can trường trong tính cách của chàng thiếu niên Temujin, để về sau cậu trở thành một trong những nhân vật huyền thoại của nhân loại. Không những thế, vùng núi này còn là nơi Đại Hãn hay lui về nghỉ ngơi, sinh hoạt tâm linh, hay thậm chí là đi săn giải khuây sau những trận chiến oanh liệt. Có lẽ từ lâu ông đã thầm gắn cuộc đời mình chặt chẽ với vùng núi này, nơi mà trong một lần đi săn hồi trẻ, Đại Hãn đã ngồi trầm ngâm và nói: “Ta ưng nơi này làm nơi yên nghỉ cuối cùng của ta, các ngươi hãy ghi nhớ.

Một trong những tư liệu quan trọng nhất về đế chế Mông Cổ cũng như cuộc đời Đại Hãn chính là bộ Bí sử Mông Cổ (The Secret History of the Mongols) được viết chủ yếu vào thế kỷ 13 và chỉnh sửa bổ sung vài lần sau đó. Nhưng có lẽ, do bệnh tật và cái chết vốn là những chủ đề cấm kỵ trong văn hóa Mông Cổ, nên quyển sách này bàn luận rất ít về cách mà Đại Hãn đã trút hơi thở cuối cùng. Tất cả những gì mà chúng ta chắc chắn được đó chính là ông ra đi vào năm 1227, lúc đã ngoài 70, và vẫn đang ở chiến trường chỉ huy những cuộc chinh phạt.

Lãnh thổ đế chế Mông Cổ năm 1227, khi Đại Hãn qua đời - source: Großer Historischer Weltatlas, Bayrischer Schulbuch

Đến tận ngày này, cái chết cũng như việc chôn cất ông vẫn là một bí ẩn thật sự. Và đây là một bí ẩn đã được dự liệu và toan tính ngay từ ban đầu, vì người Mông Cổ chưa bao giờ muốn nhân loại biết chính xác nơi chôn cất Đại Hãn. Có lẽ họ hiểu được những gì mà quân Mông Cổ làm sẽ khiến bao kẻ xem ông như kẻ thù và sẽ không để ông yên ngay cả khi đã nhắm mắt xuôi tay. Trong tâm tưởng của bao nhiêu thế hệ Mông Cổ, giữ gìn bí mật về nơi chôn cất của Đại Hãn và cùng lúc đánh lạc hướng những kẻ tò mò là một trọng trách mà họ không bao giờ xem nhẹ. Chính những điều đó càng làm thế hậu thế và giới nghiên cứu phương Tây tò mò, và thèm khát giải mã’ bí ẩn hơn 800 năm tuổi này.

Có một sự thật là chưa một tài liệu nào khẳng định chắc nịch cách mà Thành Cát Tư Hãn giã biệt cõi này. Nhưng nếu xét về uy danh và ảnh hưởng của ông, không chỉ với riêng dân tộc Mông Cổ, mà các vùng thuộc địa mà ông chiếm được, thì chuyện này hoàn toàn hợp lý, vì có lẽ sự ra đi của ông sẽ tạo ra nhiều biến loạn không thể nào ngờ được vào thời điểm đó.

Hãy cùng điểm qua những ‘phiên bản’ khác nhau về ‘tập cuối’ của cuộc đời Thành Cát Tư Hãn. Theo lời kể của Marco Polo, nhà thám hiểm lẫy lừng từ kinh thành Venice, đã từng kể lại rằng Đại Hãn ra đi do bị một mũi tên bắn vào gối và trọng thương. Có nguồn khác lại cho rằng ông bị sét đánh. Một số lại truyền tai nhau rằng ông bị trúng độc, hoặc bị ‘ám sát’ bởi một lời nguyền từ phép thuật của những pháp sư đến từ những vùng đất bị vó ngựa Mông Cổ khuynh đảo. Nhưng có lẽ câu chuyện ‘đậm chất điện ảnh’ nhất chính là việc nhiều người cho rằng ông mất sau khi ‘chiếm đoạt’ thân thể của hoàng hậu xứ Tangut sau một trận đánh vì bà đã ‘giấu’ trong người một loại vũ khí bí mật, và dùng nó tấn công lúc ông chủ quan.

Sự hạn chế về thông tin và ghi chép thời bấy giờ vừa khiến tất cả những câu chuyện trên chỉ dừng lại ở mức phỏng đoán và đồn thổi, và vô tình lại tạo cơ hội cho những đầu óc đầy trí tưởng tượng nghĩ ra thêm những phiên bản khác nữa.

Đại Hãn trước lúc lâm chung - Tranh minh họa trong quyển “Book of the Wonders of the World’ - source: DeAgostini/Getty Images

Trước lúc trút hơi thở cuối cùng, Đại Hãn ra lệnh: “Phải giấu kín tin ta chết. Tất cả hàng quý tộc và cận tướng phải về đến Mông Cổ, bấy giờ mới được phát tang”. 

Có lời kể rằng: “Quân Mông Cổ làm y lệnh, họ đưa thi hài ông về quê hương Mông Cổ. Trên đoạn đường mà cổ xe tang đi qua, bất cứ kẻ nào, loài nào vô phúc lọt vào tầm mắt đều bị đuổi theo giết sạch. Cứ như thế, cỗ xe tang vượt qua núi đồi, qua sông hồ, qua rừng rậm, qua sa mạc. Đến biên giới Mông Cổ, một rừng người ra đón ông, khóc than vang dậy đất trời, trong số ấy có 5 bà hậu, đám con của ông, và 500 vương phi và cung tần.

Sau đó, một vài vị tướng lỗi lạc của ông khi mất cũng được chôn gần đó. Có người kể, sau khi chôn, kỵ binh đã phải cho ngựa chạy qua chạy lại để mặt đất được phẳng, và không để lại dấu tích”.

Một số khác thì lại tin rằng ông được chôn cất cùng một con lạc đà vừa sinh ra đời, để dẫu cho không còn dấu tích gì thì những người thân thiết nhất của ông, khi cần, sẽ dùng lạc đà mẹ làm ‘người dẫn đường’ để tìm đến khoảnh đất mà ông nằm bên dưới.

Chính những giai thoại về ‘lạc đà mẹ và lạc đà con’ ở bên trên, cùng sự thiếu sót về thông tin xác thực, đã khơi ra nhiều tranh cãi về dân tộc nào thực sự có quyền làm chủ ‘di sản’ rộng lớn và ông để lại. Nhiều người thậm chí còn cho rằng lạc đà không có nhiều tại Mông Cổ và phía Bắc Trung Quốc, nên có lẽ Thành Cát Tư Hãn đã được chôn cất tại… những sa mạc trên đất Nga và Kazakhstan. Từ đó, những quốc gia này dùng câu chuyện này để cho rằng mình mới chính là người thừa kế xứng đáng vùng đất đai rộng lớn mà đế chế Mông Cổ chiếm được. 

Bỏ qua những mẩu chuyện không rõ nguồn gốc, có một điều khá chắc chắn mà giới nghiên cứu lịch sử đều đồng tình, đó chính là sau khi ông mất, có một vùng đất rộng tới hơn 90 cây số vuông quanh núi Burkhan Khaldun được công bố là vùng Cấm (Great Taboo, hoặc Ikh Khorig trong tiếng Mông Cổ). Lệnh cấm này nêu rõ rằng không ai được phép bén mảng đến đây vì tỏ lòng tôn trọng sự đau buồn vô hạn với sự ra đi của Đại Hãn và cũng để đảm bảo sự riêng tư an yên cho chốn yên nghỉ này. 

Nhiều người còn cho rằng, lệnh cấm này thật ra chỉ là chiêu bài ‘giương đông kích tây’ của những người thân của ông, cốt yếu chỉ để đánh lạc hướng dư luận. Và nếu nó đúng, thì chiêu này quá hiệu nghiệm, vì biết bao thế hệ hậu thế đã tin theo nó răm rắp và mãi bị dắt mũi và không bao giờ biết được chân tướng sự thật. Không chỉ ban hành lệnh cấm đơn thuần, mà hoàng thân Mông Cổ khi đó còn chỉ định cho một bộ tộc có tên Darkhad trấn giữ vùng biên ải này, sẵn sàng ra tay với kẻ nào liều lĩnh mò đến đây quấy rối. Đổi lại, người Darkhad sẽ được miễn nhiều loại thuế để đối lấy sự trung thành và tận tụy của mình.

Đàn ông Darkhad trong trang phục truyền thống - source: wearethemighty

Theo quan niệm của người Mông Cổ, sau khi chết đi, linh hồn vẫn tồn tại, đặc biệt thông qua những vật dụng gắn liền với họ khi còn sống. Do đó, khi Đại Hãn qua đời, những kỉ vật của ông như áo giáp, vũ khí trở nên đặc biệt linh thiêng vì nó giữ gìn linh hồn của ông. Vì vậy, con trai thứ tư của Đại Hãn đã khởi xướng việc xây lên những yurt (lều du mục Mông Cổ) để làm nơi thờ cúng những kỉ vật của cha. Có hơn 500 gia đình của bộ tộc Darkhad được giao trọng trách quý giá này, và họ được xem như những ‘cận vệ’ trấn giữ nơi an nghỉ của ông. 

Những người hậu duệ Mông Cổ, cùng với người Darkhad, đã nghiêm túc tuân thủ lệnh cấm này trong suốt hơn 700 năm sau, khiến cho nơi này gần như không ai lui tới. Mọi thứ chỉ kết thúc vào năm 1924 khi mà nước Cộng Hòa Mông Cổ được thành lập. Lúc này thì việc di chuyển vào đây mới được cho phép chính thức.

Trong suốt 8 thế kỷ qua, kể từ khi mà ‘vùng Cấm’ được ban hành sau cái chết của Đại Hãn, vùng sơn cước này gần như vẫn không một ai lui tới. Vẫn không có gì thay đổi sau chừng ấy năm. Cho dù bên dưới lòng đất, Đại Hãn có thực sự nằm đó hay không, thì phía trên mặt đất, sự thiêng liêng và tĩnh lặng của vùng này vẫn vẹn nguyên như thuở ban đầu.

Một trong những lý do khác khiến rất ít người tới khu vực này đó chính là việc Mông Cổ trở thành một quốc gia theo chế độ Cộng Sản vào năm 1924, dưới sự đỡ đầu của Liên Xô. Sau đó, vì lo ngại rằng khu vực này sẽ trở thành một thành một điểm nóng chính trị và thu hút những người ủng hộ chủ nghĩa dân tộc Mông Cổ, chính quyền Cộng Sản Mông Cổ lúc đó đã đổi tên khu vực này thành Highly Restricted Area (tạm dịch: Vùng cấm Đặc biệt). Họ thậm chí còn ‘mở rộng’ thêm diện tích của ‘vùng cấm’ ban đầu, khiến cho nó còn rộng lên đến thêm 10,000 km2. Hơn nữa, khu vực mở rộng này được canh giữ chặt chẽ với những chốt quân đội, sân bay quân sự, kho vũ khí, tên lửa. Tuy nhiên, đến thập niên 1980, khi mà Liên Xô sụp đổ thì chính phủ mới của Mông Cổ cũng cho xóa bỏ luôn khu vực ‘vùng cấm đặc biệt’ này.

Có một câu chuyện ‘truyền miệng’ khá li kì xoay quanh Stalin và việc ông có ý muốn khai quật thi thể của các vị vua lừng danh ở châu Á là Timur và Thành Cát Tư Hãn. Vào năm 1942, Stalin đã cử phái đoàn các nhà khảo cổ đến vùng Samarkand, (Uzbekistan) để khai quật thi thể của vua Timur và mang về Moscow phục vụ nghiên cứu. Tuy nhiên, rất nhiều đoàn khảo cổ đã thất bại trong việc truy tìm dấu vết lăng mộ của Đại Hãn. 

Điều đáng nói chính là bất chấp sự phản đối và can ngăn của những người theo đạo Hồi và giới học giả tại Uzbekistan, Stalin vẫn cương quyết mang được thi thể vua Timur về Nga. Và chỉ đúng 2 ngày sau khi quan tài của vua Timur được mở ra, Phát Xít Đức đã nổ súng tiến vào Nga một cách đầy khiếp sợ và Nga đã không kịp trở tay. Nhiều người cho rằng Stalin đã bị mắc phải lời nguyền từ việc ông dám cho khai quật mộ của vua Timur. Những người tin vào câu chuyện này còn đưa ra một luận điểm thuyết phục hơn đó là sau đó Stalin nhận ra điều này, và ông cho phái đoàn mang thi thể vua Timur về đúng chỗ cũ, cử hành nghi lễ chôn cất long trọng. Sau đó thì ai cũng biết, Hồng quân Liên Xô thắng trận Stalingrad lịch sử một cách thần kỳ, xoay đổi cục diện thế chiến thứ hai, và từ đó nắm lấy thế trận và đại thắng. 

Cũng nhờ lý do này mà đối với nhiều người, việc Stalin không tìm thấy mộ của Đại Hãn biết đâu là việc lành, vì nếu ông chẳng may tìm ra ngôi mộ này, thì lời nguyền sẽ còn khủng khiếp tới mức nào nữa?

Suốt thời gian qua, đã có không ít các đoàn khảo cổ, với quy mô lớn nhỏ khác nhau, cùng sự hỗ trợ của các thiết bị công nghệ, đã nhận nhiệm vụ tìm ra dấu vết của Đại Hãn, nhưng tất cả đều không đem lại kết quả đáng kể. Nguyên nhân lớn nhất có lẽ là vì người Mông Cổ không thích và cũng không ủng hộ các phái đoàn nước ngoài đến đây làm nhiệm vụ trên. Đối với họ, tốt nhất là đừng ai nghĩ đến chuyện tìm ra nơi yên nghỉ cuối cùng của đại anh hùng dân tộc này.

Cùng lúc đó, vùng đất yên nghỉ của Đại Hãn lại vừa đón nhận thêm một tấm khiên bảo vệ mới. Sau khi nơi này được ‘che chắn’ bởi những bộ tộc bản địa, rồi tới lệnh cấm của chính quyền Cộng Sản, giờ đây chính UNESCO cũng đã đưa nơi này vào danh sách Di sản thế giới. Cụ thể, một khu vực lên tới 12,270 km2 tại núi thiêng Burkhan Khaldun đã được liệt vào diện bảo vệ nghiêm ngặt, và vùng cấm này có tên Khan Khatii. UNESCO đã ghi rõ, ngoại trừ những hoạt động tín ngưỡng, tất cả các hoạt động khác tại khu vực này đều bị cấm.

Bản đồ khu vực cấm Khan Khatii - source: UNESCO

Những thông tin cụ thể và chính xác về Khan Khatii không có nhiều trên internet, và thậm chí bản đồ chính xác về khu vực này cũng hiếm. Trên website của UNESCO hiện chỉ có một ít thông tin, và một trong số đó là tấm bản đồ bên trên. 

Sự khan hiếm thông tin chính xác, cùng với những huyền thoại về vùng đất này chỉ khiến nó thêm phần bí ẩn. Tất cả như một đám mây cứ lượn lờ che phủ lấy sự thật về vùng đất này, khiến hậu thế rất khó tiếp cận chứ đừng nói đến việc tìm ra nơi chôn cất Thành Cát Tư Hãn, để rồi câu chuyện này đến tận hôm nay vẫn mãi là một bí ẩn thật sự vẫn chưa có lời giải.

Chia sẻ câu chuyện này

Thiết kế dàn trang: Gia Thuần

Share