Binh Khởi Đàng Ngoài – Kỳ 3: Thanh lý môn hộ

Tác giả Wong Trần
Binh Khởi Đàng Ngoài – Kỳ 3: Thanh lý môn hộ

Nguyễn Bá Lân đưa độc tới Đoàn Thành

Phạm Tư Quang bưng rượu vào xứ Nghệ

Tháng Mười Một năm Long Đức thứ nhất [1732], các quan văn võ hặc tội Sóc quận công Nguyễn Công Hãng, đòi xử giảo ông này. Chúa Trịnh Giang bèn ban lệnh chỉ, nói rằng:

Lời đình nghị cũng là đáng lý. Nhưng Hãng phụng sự tiên triều tích lũy nhiều công. Ta cũng không nỡ. Hãy tạm khoan thứ giáng làm phiên thần ngoại trấn, để giữ lấy sống thừa”.

Các bề tôi bèn tâu xin giáng Nguyễn Công Hãng làm Thừa chánh sứ Tuyên Quang. Công Hãng ra Tuyên Quang được ít lâu. Chúa Trịnh Giang sai Trung sứ đem thuốc độc tới ban cho. Bấy giờ là tháng Ba năm Long Đức thứ hai [1733]. Nguyễn Công Hãng khi ấy 53 tuổi.

Trong số bốn người muốn phế Trịnh Giang còn lại Vân quận công Đỗ Bá Phẩm, Điện quận công Lê Anh Tuấn và Thiêm quận công Trương Nhưng. Lúc trước, Đỗ Bá Phẩm thấy đất thôn Nỏ Bạn huyện Thường Tín hợp phong thủy, bèn mua đá tạc tượng, xây lăng mộ cho mình. Chúa Trịnh Giang muốn nhân dịp đó xử chết cả Đỗ Bá Phẩm, nên sai thầy mình là Nguyễn Hiệu bàn luận. Nguyễn Hiệu là người nhân từ, nên cố ý trì hoãn. Chúa Trịnh Giang nổi giận, đuổi Đỗ Bá Phẩm ra làm Tuần thủ Yên Quảng, rồi sau đó cách chức, bắt phải tự tử. Bá Phẩm tìm đất tốt để xây lăng là để cầu phúc lộc. Lăng chưa xây xong thì Bá Phẩm đã chịu tội chết. Quả là “hòn đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn”. Ngày nay, con cháu Đỗ Bá Phẩm vẫn còn làm lễ giỗ cho Đỗ Bá Phẩm vào ngày 25 tháng Sáu âm lịch. Cũng vì không tham gia vào việc xử chết quận Vân mà Nguyễn Hiệu bị cách chức Tham tụng, giáng làm Thượng thư bộ Hình, thự Thiếu bảo.

Mấy tháng sau, Trịnh Giang lại sai Trung sứ lên Lạng Sơn ban rượu độc cho Lê Anh Tuấn. Người được sai đi là Tư huấn Nguyễn Bá Lân. Sau này Bá Lân còn tự hào mình “làm việc không sơ hở; thiên hạ đều cho là nghiêm túc mà có độ lượng”.

Trong số bốn người chỉ còn lại Thiêm quận công Trương Nhưng. Nhưng là em Thái phi Trương thị – bà nội của chúa Trịnh Giang, lại đang nắm quân mạnh ở Nghệ An. Vì vậy, chúa Trịnh Giang còn chần chừ.

Mùa hạ năm Long Đức thứ tư [1735], vua Lê Thuần Tông ốm nặng. Trịnh Giang sai đại thần vào chăm sóc, nhân tiện rình xem trong số các hoàng thân có ai có thể nối ngôi. Bấy giờ con trưởng của vua là Lê Duy Diêu đã 19 tuổi. Trịnh Giang hiềm là lớn quá. Em trai vua là Lê Duy Thần là cháu gọi Thái phi Vũ thị (mẹ chúa Trịnh Giang) bằng cô, lại được nuôi dưỡng trong phủ chúa, lúc đó mới 17 tuổi. Trịnh Giang thấy Duy Thần là chỗ thân quen, dễ chế ngự hơn. Khi vua Lê Thuần Tông băng hà, Trịnh Giang bèn nói rằng Duy Thần có diện mạo giống tiên đế, nên quyết định lập làm vua. Đó là vua Lê Ý Tông.

Rồi đến năm sau [1736], chúa Trịnh Giang phong em trai mình là Trịnh Doanh làm Tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh, Thái úy, tước Ân Quốc công, cho mở phủ Lượng Quốc để nhiếp việc triều chính. Hàng tháng vào những ngày ba (tức ngày mồng 3, 13 23), Trịnh Doanh gặp mặt các quan ở Trạch Các để xử lý công việc. Các quan khi tâu việc thì xưng là “cẩn bẩm”. Tước quốc công và quyền mở phủ là đặc quyền của vương thế tử. Nhưng Trịnh Giang lúc đó chưa có con trai, mới cho em mình là Trịnh Doanh làm “Thế đệ”. Trịnh Doanh lúc đó đã 17 tuổi.

Trong số các bề tôi bị hiềm nghi chỉ còn Thiêm quận công Trương Nhưng đang ở Nghệ An. Bề tôi yêu của Trịnh Giang là Hiệp quận công Hoàng Công Phụ – thường gọi là quận Bào – cũng ghét Nhưng, nên càng thúc đẩy thêm vào. Gặp lúc Thái phó Siêu quận công Nguyễn Minh Châu tâu bày các việc tai dị, không hợp ý chúa. Trịnh Giang bèn quy cho Châu là chỉ trích triều đình, nên bắt giáng chức làm Hữu đô đốc, đi ra Nghệ An. 

Minh Châu là dòng dõi công thần ở trang Gia Miêu ngoại, huyện Tống Sơn, dời đến ngụ cư ở Kinh Bắc, có tài cưỡi ngựa bắn cung, có đọc qua Kinh, Truyện, tính tình ôn hòa, khoan dung rộng lượng. Lúc đầu, Minh Châu vào hầu trong phủ Lý Quốc của chúa Trịnh Căn. Gặp lúc viên quan Đề lãnh của phủ chúa thi đấu giáo với mọi người ở trước mặt chúa. Viên Đề lãnh giỏi cưỡi ngựa nên ai cũng sợ. Riêng Minh Châu nhảy lên ngựa, xông vào xốc giáo một hiệp là thắng. Mọi người hò reo. Chúa Trịnh Căn liền thưởng cho làm Đô chỉ huy Thiêm sự. Minh Châu về sau ra trấn các xứ Hải Dương, Yên Quảng, Kinh Bắc, Sơn Nam, Thanh Hoa, Nghệ An, đều có thành tích. Lúc vua Lê Dụ Tông và chúa Trịnh Cương nối nhau qua đời, Minh Châu nghĩ mình đang nắm trọng binh ở ngoài, sợ bị hiềm nghi, nên khẩn thiết xin được trở về kinh để canh giữ lăng mộ. Đến đây, Trịnh Giang lại cho Minh Châu ra trấn Nghệ An, tiếng là trách phạt, nhưng sự thực là muốn mượn tay Minh Châu để trừ Trương Nhưng.

Siêu quận công vào Nghệ An, được ban cho 24 chiếc áo bào xanh và 18 cái lọng vẽ rồng năm móng, nghi trượng cũng giống như bậc vương giả. Đi theo quận Siêu còn có Nội sai thị cận Dật Trung hầu Phạm Tư Quang và 30 võ sĩ Thị hầu. Lính Thị hầu là cấm quân canh gác phủ chúa, đều là người cao lớn được tuyển chọn đặc biệt. Bọn họ giấu dây trói và vũ khí trong người. Cả đoàn tiến vào tư dinh Thiêm quận công, bảo rằng có chiếu chỉ.

Thiêm quận công Trương Nhưng nghĩ mình là quý thích, chẳng nghi ngờ gì, vội bày hương án, quỳ chờ lệnh. Dật Trung hầu hô lính Thị hầu xông tới trói lại, rồi đưa thuốc độc bắt Nhưng phải uống. Siêu quận công Nguyễn Minh Châu thay làm Đốc trấn Nghệ An.

Việc giết Trương Nhưng là ý chúa Trịnh Giang. Nhưng Trịnh Giang lại đổ cho Nguyễn Minh Châu tự ý làm. Tuy triều nghị không đả động gì tới việc này nữa, nhưng Trịnh Giang lại chuyển sang muốn trừ khử quận Siêu. Tháng Mười năm đó [1735], chúa Trịnh Giang lại sai Dận Trung hầu Đặng Đình Miên cùng Nội sai Thị cận Dật Trung hầu Phạm Tư Quang bưng rượu độc vào Nghệ An, toan giết Nguyễn Minh Châu rồi cho Đặng Đình Miên thay chức.

Chưa biết tính mạng quận Siêu sẽ ra sao?

Chia sẻ câu chuyện này

Tác giả: Wong Trần
Minh hoạ: Minh Thảo Võ
Thiết kế và dàn trang: TRẦN VĂN HẬU

Share