Trịnh An vương chong đèn bàn việc nước Nguyễn Tham tụng dâng khải hặc trừ quân
Tham tụng Nguyễn Công Hãng bị đánh thức khỏi giấc ngủ say. Ngoài trời còn tối. Nhưng từ phủ chúa có nội giám đến triệu ông vào gấp. Nguyễn Công Hãng không rõ là việc hệ trọng gì, nên lật đật chuẩn bị. Bên ngoài đã có viên nội giám cầm thẻ bài “Nội sai” và phu khiêng võng cùng lính dẹp đường chờ sẵn. Nguyễn Công Hãng lên võng. Cả toán người rảo nhanh về phía phủ chúa.
Đến nơi, Nguyễn Công Hãng thấy có cả Tham tụng Lê Anh Tuấn. Hai người được nội giám dẫn qua nhiều lớp cửa và rèm, tới chỗ chúa Trịnh đang ngự. Lúc vào đến nơi thì An vương Trịnh Cương đã ngồi chờ sẵn. Giọt đồng hồ đã báo canh năm [từ 3 đến 5 giờ sáng]. Chúa Trịnh Cương bấy giờ mới hơn 30 tuổi, tinh thần phấn chấn, hăng say với việc chính sự. Thấy hai bề tôi thân tín đã đến, chúa cười bảo:
– Vừa rồi đánh thức hai ông trong giấc ngủ. Từ cổ có việc này chăng?
Nguyễn Công Hãng và Lê Anh Tuấn lạy tạ, nói:
– Thánh thượng ưu tư, siêng năng chính sự, noi theo lòng trời làm việc khỏe khoắn. Đó không phải là việc bọn ngu hèn chúng thần bì kịp. Còn việc khích lệ bề tôi nên gắng gỏi, đánh thức lúc đêm khuya, thực đời trước chưa có ai như vậy.
Chúa Trịnh Cương hài lòng, sai hai bề tôi ngồi xuống và ban cho nước trà. Số là chúa Trịnh đang nghĩ đến việc chính sự, nhưng nôn nóng không thể đợi đến lúc trời sáng, mới cho gọi Nguyễn Công Hãng và Lê Anh Tuấn vào nội các bàn bạc. Chúa ung dung hỏi về chính sự. Hai người cũng thành thực trả lời.
Nguyễn Công Hãng người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, đỗ Đồng tiến sĩ năm 1700, lúc vừa 20 tuổi. Năm 1711, chúa Trịnh Cương cầu lời nói thẳng. Nguyễn Công Hãng lúc đó làm Đề hình, cũng có dâng tờ khải. Chúa khen lời nghị luận của Công Hãng là “mạnh dạn, thẳng thắn”. Nguyễn Công Hãng về sau được cho đi làm Đốc trấn Cao Bằng, rồi gọi về làm Hữu thị lang bộ Hình, rồi giữ địa vị Bồi tụng, đi sứ nhà Thanh. Đời truyền rằng Nguyễn Công Hãng đã biện luận thành công, khiến nhà Thanh bãi bỏ lệ cống người vàng và cống nước giếng Trọng Thủy. Năm 1720, Trịnh Cương thăng Nguyễn Công Hãng cùng Lê Anh Tuấn và Nguyễn Công Cơ làm Tham tụng. Vai trò của Tham tụng gần như là tể tướng dưới chính quyền chúa Trịnh.
Tiến sĩ Vũ Phương Đề kể rằng trước đó ít lâu, viên Điển bạ họ Nguyễn người xã Kiệt Đặc huyện Chí Linh (Hải Dương) nằm mơ thấy Vương An Thạch vào làm Tể tưởng. Lúc tỉnh dậy, ông ta nói:
– Rồi đây triều đình dùng người tất nhiên khác trước xa lắm. Vậy ta đợi thử xem sao.
Nguyễn Công Hãng đúng là người có lòng cải cách như Vương An Thạch nhà Tống. Dưới sự kiến nghị của ông, chúa Trịnh Cương tiến hành sửa đổi chế độ áo mũ của các quan văn võ, thực hiện quản lý việc mua bán đồng, quế và muối, sửa đổi binh chế, tiến hành đánh giá hiệu quả làm việc của các quan, chấn chỉnh phong cách văn chương của sĩ tử. Những việc này đều hợp với tinh thần hăng hái của nhà chúa. Cuộc nói chuyện trong đêm đó là một trong rất nhiều lần bàn luận của họ. Ba người nói chuyện trọn ngày. Đến lúc mặt trời lặn, Nguyễn Công Hãng và Lê Anh Tuấn mới được cho về.
Chúa Trịnh Cương có bảy con trai và tám con gái. Trong đó có hai người do Chiêu viên Vũ thị người xã My Thự, huyện Đường An, trấn Hải Dương sinh ra. Đó là Trịnh Giang và Trịnh Doanh. Trịnh Giang sinh năm 1711, còn Trịnh Doanh nhỏ hơn anh trai chín tuổi. Năm 1717, chúa Trịnh Cương cho Trịnh Giang ra ở phủ riêng, sai Bồi tụng Nguyễn Công Hiệu làm Tán tiện, Nguyễn Hiệu và Nguyễn Quý Ân làm Tả, hữu tư giảng, để dạy dỗ Trịnh Giang. Nguyễn Quý Ân mất sớm, rốt cuộc chỉ còn Nguyễn Hiệu hầu hạ bên cạnh.
Năm 1720, chúa Trịnh Cương chính thức lập Trịnh Giang làm Thế tử. Mùa đông năm 1727, Thế tử Trịnh Giang đã tròn mười sáu tuổi. Chúa Trịnh Cương phong cho làm Khâm sai Tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh, kiêm nắm các việc chính sự cơ mật, Thái úy, tước Thịnh quốc công, cho phép mở phủ Điện Quốc. Với việc phong chức này, Thế tử Trịnh Giang bắt đầu thiết lập một hệ thống quan lại dưới quyền, và thực tập xử lý một số công việc chính trị, quân sự.
Nguyễn Công Hãng lại không hài lòng với Thế tử. Công Hãng bí mật dâng khải nói với chúa rằng:
– Thế tử là người nhu nhược, không kham nổi việc lớn.
Chúa Trịnh Cương đọc xong, gọi Công Hãng vào, bảo:
– Không phải ta không biết như thế. Nhưng từ ngày Thế tử được tạm cầm quyền bính, chưa hề phạm lỗi lớn, nên ta không nỡ.
Công Hãng cúi đầu thưa:
– Biết con không ai bằng cha. Kính xin chúa thượng vì xã tắc mà lo tính.
Chúa Trịnh Cương bèn cất tờ khải của Nguyễn Công Hãng vào trong hộp. Lúc này, chúa Trịnh có mối lo khác. Chúa biết kiểu đất phần mộ nhà mình có lời đoán: “Truyền được tám đời, trong nhà dấy vạ”. Vì vậy, chúa Trịnh tìm cách để phá giải lời đoán đó.
Nhân lúc đi chơi ở huyện Gia Lâm, chúa Trịnh thấy xã Cổ Bi có thế phong thủy rất tốt. Trịnh Cương cho rằng long mạch của nước Nam thì Thăng Long là long mạch bên phải, còn Cổ Bi mới là mạch chính ở giữa, bèn nảy ra ý định xây dựng kinh đô mới ở đó. Các quan cũng đề xuất việc xây hành cung để chúa ngự khi đi tuần du. Chúa Trịnh Cương bèn sai vẽ bản đồ, rồi cho dựng hành cung. Chúa còn thấy ở núi Mộc Hoàn tại huyện Quế Dương có huyệt đất cửu long rất quý, bèn bảo với Nguyễn Công Hãng:
– Cửu Long có kiểu đất quý. Tiên sinh nên đem phần mộ gia tiên đến đó mà táng. Đừng để người khác chiếm mất.
Nguyễn Công Hãng bèn làm theo lời chúa, đem mộ nhà mình đến chôn ở đó.
Hành cung Cổ Bi xây suốt một tháng thì xong. Chúa ban lệnh chỉ ban ơn, thăng chức cho bọn Nguyễn Công Hãng. Chúa Trịnh không biết rằng chính việc này đã gieo lại mầm họa cho vị “Vương An Thạch” mà mình sủng ái.
Đến năm 1729, nhân một kỳ đại lễ, Thế tử Trịnh Giang hành lễ có sai sót. Chúa Trịnh Cương đùng đùng nổi giận. Chúa cho họp các quan, đã bàn tới việc truất ngôi Thế tử.
Việc bàn bạc còn chưa quyết, chúa Trịnh Cương bèn ngự ra hành cung Cổ Bi, rồi tiện đường về quê ngoại là phủ Như Kinh. Như Kinh là quê Thái phi Trương thị, mẹ đẻ chúa Trịnh Cương. Lúc đang ngự ở đây, chúa Trịnh Cương đột ngột qua đời, bấy giờ mới được 44 tuổi.
Thái phi Trương thị bí mật mang thi hài chúa đưa vào trong kiệu lớn, sai Kỳ Viên quý phi ngồi ở bên trong hầu kiệu. Thị nội giám Nguyễn Huân đưa kiệu đi như bình thường. Ngay trong đêm, kiệu về tới kinh đô. Lúc bấy giờ mới phát tang.
Tham tụng Nguyễn Công Hãng nghe tin dữ, liền họp các quan ở Đô đường, nói rằng:
– Thế tử có lỗi lớn. Tiên vương đã có nói. Nay xin lập con thứ lên nối ngôi.
Các quan nghe Nguyễn Công Hãng nói thì đều im lặng. Chưa biết phải trả lời ra sao?
Chia sẻ câu chuyện này
Tác giả: Wong Trần Minh hoạ: Minh Thảo Võ Thiết kế và dàn trang: TRẦN VĂN HẬU