Binh Khởi Đàng Ngoài – Kỳ 7: Thầy bói ra tay

Tác giả Wong Trần
Binh Khởi Đàng Ngoài – Kỳ 7: Thầy bói ra tay

Gọi trung thần, Hoàng Mật phát hịch văn
Đoán thiên mệnh, Thầy Nghếch nhìn nét chữ

Trần Cảnh vừa nói dứt lời thì quân Lê Duy Mật đã đổ ra đánh. Tiền quân Trịnh bị đánh bất ngờ. Quân lính tan vỡ, chạy trốn. Trần Cảnh ra sức vẫy quân lại, giật được một lá cờ, chỉ huy ba quân dàn trận cùng bắn vào quân địch. Quân Lê Duy Mật tan tác rút lui. Hôm đó là ngày 15 tháng Hai năm Kỷ Mùi [1739].

Lê Duy Mật tuy rút lui, nhưng vẫn còn dựa vào miền thượng du Thanh Hoa để hoạt động, như Thái Tổ Cao hoàng đế năm nào. Các tù trưởng, phụ đạo thượng du vẫn hết lòng ủng hộ. Vì vậy, Trần Cảnh và Đặng Đình Mật còn phải chia đường tiến lên các huyện Quảng Bình, Cẩm Thủy ở thượng du để giao chiến. Đánh nhau nhiều trận lẻ tẻ giằng co. Lê Duy Mật cũng phát hịch ra các đạo, kêu gọi hào kiệt đánh họ Trịnh. Lời hịch kêu gọi:

Người vẫn là người cõi Việt;
Đất nào chẳng đất nhà Lê.
Ngôi thiên-vương chim phượng ngắn lông,

trông thấy cũng nên sa nước mắt,
Tặc-quân chắc miệng tầm ăn lá,

xem vào sao chẳng ngứa buồng gan?
Xác liu-điu nào phải con rồng,
Lửa lém-đém chen gần bóng ác.
Cấy lúa chớ dung loài má khác;
Ăn quả nên nhớ kẻ giồng cây.

Bấy giờ, trong dân gian truyền nhau lời sấm: “Đoài phương tĩnh nhất khu” (Phương Tây có một khu đất yên tĩnh). Đỗ Thế Giai, Hoàng Ngũ Phúc và một hoạn quan nữa là Nguyễn Xuân Trành nghe lời sấm nói phía Tây có một vùng đất yên tĩnh, bèn cùng nhau đi dò xét. Một hôm, ba người vào tránh nắng tại một cái quán ở giữa đồng huyện Yên Lãng. Trong quán có một người thầy bói đang xem bói. Ba người trông ra, thì chính là Cổ Quái bốc sư đã bói chữ cho Nguyễn Công Hãng năm xưa, tục gọi là thầy Nghếch. 

Đỗ Thế Giai bèn tiến tới, nói với thầy Nghếch:

– Tôi là Giám sinh nghèo. Hai người này cũng là Nội thị nghèo. Cùng một cảnh cơ nhỡ, lang bạt tứ phương. Ngày nay quốc thế, nhân tâm đang nghiêng ngả. Muốn tìm một khoảnh đất yên tĩnh để ở, nhưng tìm mãi vẫn chưa được, lộ phí đã hết nhẵn. Tiên sinh thử bói cho một quẻ. Ngày sau nếu được như ý, đương nhiên sẽ hậu tạ. Không rõ ý tiên sinh ra sao?

Thầy Nghếch cười lớn, đáp rằng:

– Tôi cũng là một kẻ sĩ thi mãi không đỗ, phải làm nghề thầy bói, nên không thể làm mù hai mắt để được người đời thực sự coi là thầy bói. Tiên sinh là người trong cuộc, hai vị nội thị cũng là quý khách. Nay đã có ý nhún nhường hỏi đến, tôi sẽ cứ sự thực mà xem cho các ông. Có lòng thành là quý, hà tất phải nói đến chuyện hậu đãi.

Đỗ Thế Giai liền móc ra mấy đồng, mua mấy miếng trầu của bà chủ quán để đặt lễ. Ba người cầu khấn những điều mong mỏi. Cầu xong, thầy Nghếch nói:

– Nghề bói toán của tôi cũng biết được nhiều kiểu. Duy môn chiết tự là giỏi nhất. Vậy các ông mỗi người viết một chữ cho tôi xem.

Đỗ Thế Giai cầm bút toan viết bốn chữ “Càn Khôn nhất tụ” (Trời đất thu vào ống tay áo). Nhưng mới viết được chữ “Càn” thì Hoàng Ngũ Phúc ngăn lại, nói:

– Tiên sinh đã bảo rồi. Mỗi người chỉ viết một chữ. Không được trái lệnh!

Ngũ Phúc cầm lấy bút, viết một chữ “Nguyên”, rồi đưa bút cho Nguyễn Xuân Trành. Xuân Trành viết chữ “Hanh”. Viết xong, Xuân Trành chỉnh lại áo, tay nâng tờ giấy lên ngang trán, quỳ dâng cho thầy Nghếch, nói rằng:

– Thừa lệnh tiên sinh. Chúng tôi mỗi người đã viết một chữ. Xin được chỉ bảo.

Thầy Nghếch đứng dậy, nhận lấy, xem qua rồi vỗ tay cười lớn:

– Nước nhà có người rồi! Quốc gia vô sự, thiên hạ thái bình. Giám sinh sẽ làm cận thần, còn hai vị Nội thị sẽ làm Đại tướng. Tôi sẽ là thầy của ba vị khách quý. Thôi đừng đi đâu nữa. Tôi sẽ tới kinh đô để giúp các ông xây dựng sự nghiệp.

Ba người nghe nói, sửng sốt quá chừng. Đỗ Thế Giai hỏi:

– Bọn hèn kém chúng tôi nghe tiên sinh nói, như cơn mơ vừa tỉnh, muốn được chỉ bảo tỏ tường hơn, để thấy trước sự việc.

Thầy Nghếch nói:

– “Càn” là trời, là vua, là cha. Còn “Nguyên”, “Hanh” là đức của “Càn”. Ba chữ liền nhau, có nghĩa là xoay vần tạo dựng. Giám sinh viết chữ “Càn”, cho nên sẽ được trao cho chức quan cận thần. Hai vị Nội thị viết hai chữ “Nguyên”, “Hanh”, cho nên sẽ được trao cho chức Đại tướng. Kinh Dịch quý ở sự thông biến, đâu phải chỉ có nét chữ mà thôi. Tôi chẳng nói ngoa. Các ông rồi sẽ thấy. Các ông đã đưa ba chữ ấy đến trước mặt tôi, như thế có nghĩa là tôi sẽ trở thành người giúp các ông hoàn thành sự nghiệp.

Thầy Nghếch nói xong, liền thu dọn con tính bỏ vào trong túi, đưa cho Đỗ Thế Giai khoác lên vai, nói:

– Ba đệ tử hãy cùng đi với thầy!

Ba người nửa tin nửa ngờ, nhưng vẫn đi theo. Đến xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm, bốn người ngủ đêm tại phòng sách nhà Đỗ Thế Giai. Sáng hôm sau, bốn người lại đi Thăng Long. 

Bốn thầy trò đi đến cửa Đoan Môn. Khi ấy trời nắng to. Bốn người vào cửa Ngũ Môn tránh nắng. Thầy Nghếch ngủ vùi, rồi chợt tỉnh giấc, bảo:

– Chúng ta nên mau đi lên điện Kính Thiên xem sét đánh!

Lúc đó, có nhiều người cũng đang tránh nắng ở đó. Nghe thầy Nghếch nói như vậy, họ cũng đi theo. Ra khỏi cửa Ngũ Môn thì mặt trời đang ở đỉnh đầu, nóng như thiêu đốt. Mọi người che miệng cười thầm. Thầy Nghếch rảo bước thật nhanh, chỉ sợ không kịp. Thời đó vua Lê không coi chầu đã lâu, nên điện Kính Thiên dần thành chỗ bỏ không. Vua Lê chỉ yết kiến quần thần ở điện Cần Chánh.

Khi cả bọn tới nơi, thì một đám mây đen kéo đến đầu điện Kính Thiên. Một tiếng sét nổ vang trời, đánh tan giải vũ của điện. Sét đánh xong, trời lại nóng như cũ. Những người đứng xem đều rụt đầu lè lưỡi.

Tin tức kỳ lạ truyền vào trong nội điện. Vua Lê Ý Tông liền sai gọi thầy Nghếch vào yết kiến. Ba người Đỗ Thế Giai, Hoàng Ngũ Phúc và Nguyễn Xuân Trành cũng được gọi vào cùng. Ý Tông hỏi:

– Đang nắng mà có sét, sao tiên sinh biết được việc ấy?

Thầy Nghếch tâu rằng:

– Ngẫu nhiên nằm mơ mà thấy được.

Ý Tông cho rằng thầy Nghếch là cao nhân, vì không dám tiết lộ thiên cơ nên mới tâu như vậy. Vua Ý Tông bèn hỏi về thuật bói toán. Thầy Nghếch lại tâu:

– Thần biết bói chiết tự.

Vua Ý Tông bèn viết một chữ “Ý” cho thầy Nghếch đoán. Thầy Nghếch xem qua, khấu đầu tâu rằng:

– Bệ hạ có xá tội cho thần thì thần mới dám thưa.

Ý Tông phán:

– Bậc quân tử chỉ hỏi về tai họa, chứ không hỏi về phúc lộc. Cứ nói thật đừng giấu!

Thầy Nghếch tâu:

– Cứ như ngu kiến của hạ thần: Nhà vua không rũ áo tức là rồng không vẫy đuôi. E bệ hạ có cơ phải thoái hưu. Vì người đứng đầu bất chính.

Ý Tông hỏi:

– Quốc gia có việc gì không?

Thầy Nghếch tâu:

– Quốc gia vững như bàn thạch.

Ý Tông lại hỏi:

– Trẫm có việc gì không?

Thầy Nghếch tâu:

– Bệ hạ thọ như Nam Sơn.

Vua Ý Tông không hiểu gì cả, bèn hỏi rằng:

– Thế thì tại sao trẫm lại phải thoái hưu?

Không biết thầy Nghếch sẽ đối đáp ra sao?

Chia sẻ câu chuyện này

Tác giả: Wong Trần
Minh hoạ: Minh Thảo Võ
Thiết kế và dàn trang: TRẦN VĂN HẬU

Share