Đỗ Thế Giai bèn tiến tới, nói với thầy Nghếch:
– Tôi là Giám sinh nghèo. Hai người này cũng là Nội thị nghèo. Cùng một cảnh cơ nhỡ, lang bạt tứ phương. Ngày nay quốc thế, nhân tâm đang nghiêng ngả. Muốn tìm một khoảnh đất yên tĩnh để ở, nhưng tìm mãi vẫn chưa được, lộ phí đã hết nhẵn. Tiên sinh thử bói cho một quẻ. Ngày sau nếu được như ý, đương nhiên sẽ hậu tạ. Không rõ ý tiên sinh ra sao?
Thầy Nghếch cười lớn, đáp rằng:
– Tôi cũng là một kẻ sĩ thi mãi không đỗ, phải làm nghề thầy bói, nên không thể làm mù hai mắt để được người đời thực sự coi là thầy bói. Tiên sinh là người trong cuộc, hai vị nội thị cũng là quý khách. Nay đã có ý nhún nhường hỏi đến, tôi sẽ cứ sự thực mà xem cho các ông. Có lòng thành là quý, hà tất phải nói đến chuyện hậu đãi.
Đỗ Thế Giai liền móc ra mấy đồng, mua mấy miếng trầu của bà chủ quán để đặt lễ. Ba người cầu khấn những điều mong mỏi. Cầu xong, thầy Nghếch nói:
– Nghề bói toán của tôi cũng biết được nhiều kiểu. Duy môn chiết tự là giỏi nhất. Vậy các ông mỗi người viết một chữ cho tôi xem.
Đỗ Thế Giai cầm bút toan viết bốn chữ “Càn Khôn nhất tụ” (Trời đất thu vào ống tay áo). Nhưng mới viết được chữ “Càn” thì Hoàng Ngũ Phúc ngăn lại, nói:
– Tiên sinh đã bảo rồi. Mỗi người chỉ viết một chữ. Không được trái lệnh!
Ngũ Phúc cầm lấy bút, viết một chữ “Nguyên”, rồi đưa bút cho Nguyễn Xuân Trành. Xuân Trành viết chữ “Hanh”. Viết xong, Xuân Trành chỉnh lại áo, tay nâng tờ giấy lên ngang trán, quỳ dâng cho thầy Nghếch, nói rằng:
– Thừa lệnh tiên sinh. Chúng tôi mỗi người đã viết một chữ. Xin được chỉ bảo.
Thầy Nghếch đứng dậy, nhận lấy, xem qua rồi vỗ tay cười lớn:
– Nước nhà có người rồi! Quốc gia vô sự, thiên hạ thái bình. Giám sinh sẽ làm cận thần, còn hai vị Nội thị sẽ làm Đại tướng. Tôi sẽ là thầy của ba vị khách quý. Thôi đừng đi đâu nữa. Tôi sẽ tới kinh đô để giúp các ông xây dựng sự nghiệp.
Ba người nghe nói, sửng sốt quá chừng. Đỗ Thế Giai hỏi:
– Bọn hèn kém chúng tôi nghe tiên sinh nói, như cơn mơ vừa tỉnh, muốn được chỉ bảo tỏ tường hơn, để thấy trước sự việc.
Thầy Nghếch nói:
– “Càn” là trời, là vua, là cha. Còn “Nguyên”, “Hanh” là đức của “Càn”. Ba chữ liền nhau, có nghĩa là xoay vần tạo dựng. Giám sinh viết chữ “Càn”, cho nên sẽ được trao cho chức quan cận thần. Hai vị Nội thị viết hai chữ “Nguyên”, “Hanh”, cho nên sẽ được trao cho chức Đại tướng. Kinh Dịch quý ở sự thông biến, đâu phải chỉ có nét chữ mà thôi. Tôi chẳng nói ngoa. Các ông rồi sẽ thấy. Các ông đã đưa ba chữ ấy đến trước mặt tôi, như thế có nghĩa là tôi sẽ trở thành người giúp các ông hoàn thành sự nghiệp.
Thầy Nghếch nói xong, liền thu dọn con tính bỏ vào trong túi, đưa cho Đỗ Thế Giai khoác lên vai, nói:
– Ba đệ tử hãy cùng đi với thầy!
Ba người nửa tin nửa ngờ, nhưng vẫn đi theo. Đến xã Đông Ngạc huyện Từ Liêm, bốn người ngủ đêm tại phòng sách nhà Đỗ Thế Giai. Sáng hôm sau, bốn người lại đi Thăng Long.
Bốn thầy trò đi đến cửa Đoan Môn. Khi ấy trời nắng to. Bốn người vào cửa Ngũ Môn tránh nắng. Thầy Nghếch ngủ vùi, rồi chợt tỉnh giấc, bảo:
– Chúng ta nên mau đi lên điện Kính Thiên xem sét đánh!
Lúc đó, có nhiều người cũng đang tránh nắng ở đó. Nghe thầy Nghếch nói như vậy, họ cũng đi theo. Ra khỏi cửa Ngũ Môn thì mặt trời đang ở đỉnh đầu, nóng như thiêu đốt. Mọi người che miệng cười thầm. Thầy Nghếch rảo bước thật nhanh, chỉ sợ không kịp. Thời đó vua Lê không coi chầu đã lâu, nên điện Kính Thiên dần thành chỗ bỏ không. Vua Lê chỉ yết kiến quần thần ở điện Cần Chánh.