Binh Khởi Đàng Ngoài – Kỳ 9: Cười nụ giấu dao

Tác giả Wong Trần
Binh Khởi Đàng Ngoài – Kỳ 9: Cười nụ giấu dao

Đỗ Thế Giai thuật lời bói toán
Nguyễn Quý Kính bàn lập hương binh

Vũ thái phi nhân lúc hoạn quan Hoàng Công Phụ đi ra ngoài, lén vén rèm lên, giở chăn, thò tay vào sờ. Thấy người nằm trong chăn lông chân dựng đứng. Thái phi vội rụt tay lại, đi ra ngoài, lên xe trở về, rồi kể chuyện này cho em trai mình biết.

Bính Trung công Vũ Tất Thận lại mật bàn với Đỗ Thế Giai và Hoàng Ngũ Phúc, muốn phế bỏ Trịnh Giang để lập Trịnh Doanh làm chúa. Thế Giai bèn thưa rằng:

– Khi thầy bói xem hoàng thượng viết chữ Ý, có nói rõ về chữ Tâm trong chữ Ý rằng: Chấm bên trái là văn, chấm bên phải là võ. Nhưng khi hạ bút viết thì trước hết phải đặt tay phải xuống, rồi sau đó mới chấm. Cũng như muốn làm việc lớn, trước nên dự tìm người sáng suốt. Nay trải xem các bậc triều thần, chỉ có Nguyễn Quý Kính ở Thiên Mỗ, đời đời chịu ơn nước, nay lại là thầy dạy của Chúa, em Chúa và nghịch Bào, là chỗ thân tín nhất của Bào. Nên vâng theo ý chỉ của Thái phi, ngầm triệu ông ta tới, dùng quốc ân, đại nghĩa mà dụ, khiến ông ta bỏ chỗ tối tìm chỗ sáng, thì việc của chúng ta sẽ thành.

Vũ Tất Thận cho là phải, bèn dùng lệnh của phủ chúa triệu Nguyễn Quý Kính tới. Nguyễn Quý Kính người xã Thiên Mỗ huyện Từ Liêm, là cháu của thám hoa Nguyễn Quý Đức, con trai hoàng giáp Nguyễn Quý Ân. Quý Kính đỗ Hương cống, được cử vào làm quan lục phiên trong phủ chúa. Đến thời vua Lê Thuần Tông, Quý Kính được tiến triều, vào làm quan Tự khanh, coi việc Hộ phiên, và hầu giảng học cho Ân quốc công Trịnh Doanh. Thời đó người không qua thi Hội mà được làm quan, thì gọi là tiến triều.

Nguyễn Quý Kính nhân đêm tới nhà Vũ Tất Thận, thì thấy Thái phi Vũ thị cũng ở đó. Thái phi ban dụ cho Quý Kính. Quý Kính khảng khái, vừa khóc vừa thưa rằng:

– Việc này phi Kính ra không ai làm được. Nhưng nếu mưu không kín thì việc không thành. Nay đã trực tiếp nhận ý chỉ của Thái phi, xin ban cho mấy chữ để thần tùy cơ mà làm. Không câu nệ ngày lành tháng tốt, ngay ngày mai khởi sự, thì chiều tối sẽ cho người đến báo tin. Nếu tin tức vạn nhất bị tiết lộ, thì xin cứ đóng cửa không động tĩnh.

Thái phi bằng lòng, tự tay viết chỉ trao cho Nguyễn Quý Kính. Quý Kính bái lĩnh xong liền quay về nhà. Thầy Nghếch thấy việc của mình đã tròn, cũng cáo từ về núi, chỉ dặn rằng:

– Đến mùa xuân tới sẽ có kết quả.

Lại nói chuyện hoạn quan Hoàng Công Phụ từ khi khống chế được chúa Trịnh Giang, bèn có lòng soán nghịch, nên thường đổ thuốc cho chúa uống, khiến chúa mê man. Công Phụ lại nghĩ rằng mình chỉ là một hoạn quan nhỏ trong cung, không thể làm chủ thiên hạ, nên muốn cho anh trai là quận Thực lên ngôi. Hoàng Công Phụ vốn tin Nguyễn Quý Kính, bèn hỏi mưu của Kính. Quý Kính nói:

– Nay quyền lớn trong thiên hạ đều ở trong tay ông, vậy thì việc ấy không khó. Nhưng ưu binh đều là người Thanh, Nghệ, e không dùng được. Ông nên tuyển thêm binh lính tứ trấn, phụ vào với số binh Thanh, Nghệ. Khi khởi sự thì một chọi một, lo gì mà không thành.

Hoàng Công Phụ cho là phải, bèn cho tuyển quân tứ trấn cho bằng với số ưu binh. Nguyễn Quý Kính lại hiến kế rằng:

– Lính tứ trấn khó tập hợp, thường xuyên chỉ có bốn phủ gần kinh kỳ là dễ huy động. Chỉ có điều dùng dân cạnh nách làm quân, biết đâu lại không phải nuôi ong tay áo. Vậy tốt nhất là truyền xuống bốn phủ, dựa vào số binh ngạch mà Sóc quận công [tức Nguyễn Công Hãng] đã điểm, dự tuyển quân số trước, gọi là hương binh, rồi lệnh cho Xã khán ở các xã làm quyền quản quan, nhân lúc nông nhàn mà luyện tập, để dùng vào việc bảo vệ địa phương, cũng tiện cho việc trưng dụng khi cần thiết. Lại truyền cho các quan Quản binh tự mộ lấy dân đinh ở tứ trấn làm nghĩa binh, mỗi viên tuyển lấy 100, cấp cho lương ăn, để dùng khi hữu sự.

Hoàng Công Phụ nhất nhất làm theo mưu ấy. Bấy giờ là tháng Sáu năm Kỷ Mùi [1739], niên hiệu Vĩnh Hựu thứ năm.

Hoàng Công Phụ còn liên kết với người tôn thất họ Trịnh là Trịnh Tuệ. Tuệ là cháu 5 đời của chúa Trịnh Tùng, ngụ cư ở xã Bất Quần, huyện Quảng Xương (Thanh Hóa), làm quan Tông Nhân phủ, phó tri Hình phiên. Tuệ muốn ngoi lên theo đường sĩ hoạn. Hoàng Công Phụ bèn bày mưu cho Tuệ đỗ cao. Năm 1736, Trịnh Tuệ thi đỗ Trạng nguyên lúc 33 tuổi. Đó là Trạng nguyên cuối cùng của nước ta. Đến đây, Trịnh Tuệ được làm Lại bộ Thượng thư, Tham tụng. Trịnh Tuệ nắm quyền rồi, thì xướng họa với Hoàng Công Phụ. Hoạn quan càng được thể lộng quyền.

Tháng Tám năm đó [1739], Hoàng Công Phụ lại rước chúa Trịnh Giang ngự ra hành cung Quế Trạo ở rất lâu. Bất ngờ ở kinh đô có Nguyễn Bá Luân và Trần Văn Hoán chạy trạm tới. Hai người bưng theo sắc văn và ấn tỷ. Cả hai nói rằng có sứ giả nhà Thanh tới, sắc phong Trịnh Giang làm An Nam thượng vương. Chúa Trịnh Giang bèn tự tiến mình lên làm Đại nguyên soái, Tổng quốc chính, Thượng sư, Thái phụ, xưng là Thông Đức Anh Nghị Thánh Công Bác Đạt Mậu Hòa Tuy Du Dụ Nghĩa Trịnh vương. Có lẽ xưng hiệu quá dài, nên về sau Trịnh Giang sẽ đổi thành Toàn vương. Vốn sứ thần nhà Thanh không hề đến, mà là do Trịnh Giang sai bề tôi giả làm như vậy, để tự khoe khoang với người đời. 

Bấy giờ việc giao chiến với Lê Duy Mật đã kéo dài hơn nửa năm. Triều đình đã phải phái Tham tụng cũ là Thuật quận công Phạm Khiêm Ích vào làm Đốc phủ Thanh Hoa. Bồi tụng, Hộ bộ Thượng thư Lâm quận công Cao Huy Trạc làm Đốc đồng. Theo thông lệ chức Đốc đồng lo việc kiện tụng, thường chỉ dùng quan ngũ phẩm trở xuống và những triều sĩ mới được cất nhắc. Đến nay lại dùng Thượng thư làm Đốc đồng. Thiên hạ đều ngạc nhiên. Đỗ Thế Giai lúc này đã được bổ làm Câu kê, cũng được phái đi bí mật điều tra tình hình quân Lê Duy Mật ở miền Cẩm Thủy. 

Không chỉ hoạt động ở Thanh Hoa, hoàng thân Lê Duy Mật còn tìm cách kêu gọi hào mục các nơi nổi dậy. Đến tháng Chín năm Kỷ Mùi [1739], niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5, ở huyện Thanh Hà trấn Hải Dương đã có Nguyễn Hữu Cầu, ở trấn Kinh Bắc thì có Hoàng Công Chất. Hoàng Công Chất người huyện Thư Trì trấn Sơn Nam, vốn tên là Hoàng Công Thư. Hai cánh quân trên quấy rối hai xứ Đông, Bắc, để chia lửa cho hoàng thân Lê Duy Mật. Ngoài ra còn có Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn xây dựng căn cứ ở làng Ngân Già huyện Nam Chân trấn Sơn Nam, cũng không nghe lệnh triều đình. Các nơi nhao nhao nổi dậy, vì năm sau là năm Thân. Mà sấm Trạng Trình đã có câu: “Phá điền thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành”. Chữ Điền phá ra chính là chữ Thân. Cho nên vào năm Thân thường có người nổi lên làm loạn.

Chưa biết sự việc sẽ ra sao?

Chia sẻ câu chuyện này

Tác giả: Wong Trần
Minh hoạ: Minh Thảo Võ
Thiết kế và dàn trang: TRẦN VĂN HẬU

Share