Chúa Nguyễn Bắc phạt – Kỳ 18: Cách sông khẩu chiến

Tác giả Wong Trần
Chúa Nguyễn Bắc phạt – Kỳ 18: Cách sông khẩu chiến

Tháng Chín năm Vĩnh Thọ thứ nhất [1658], Nguyễn Hữu Dật nhân nước lũ đánh úp lũy Đồng Hôn. Ngược lại, phía quân Trịnh cũng dần dần chiếm ưu thế ở miền thượng lưu sông Lam. Tháng Mười năm đó, hai anh em Trần Hưng Học, Trần Hưng Nhượng được lệnh qua sông trước, dọn dẹp gai góc để mở đường cho đại quân Trịnh vượt sông, thu phục huyện Thanh Chương. Quân Trịnh men theo đường chân núi, tập kích tướng Nguyễn là Đăng Doanh. Quân Nguyễn thua chạy.

Đến tháng Mười Một, anh em Trần Hưng Học lại dò biết quân Nam tập trung ở xã Tuần Lễ, huyện Hương Sơn. Hai người liền điều tra địa thế, vẽ thành bản đồ dâng lên. Tháng Mười Hai, Thống lĩnh Phú quận công Trịnh Căn sai Đốc suất Đào Quang Nhiêu dẫn các tướng Hào quận công Lê Thì Hiến, Hân quận công Đặng Thế Công, Tham thị Trịnh Đăng Đệ chia đường tiến đánh Tuần Lễ. Quân Trịnh gióng trống tiến lên, giao chiến với quân Nguyễn. Lê Thì Hiến chỉ huy sáu cơ quân, tổng cộng hơn 3.600 người ác chiến. Quân Nguyễn lui chạy. Đến khi trận chiến đã ngã ngũ thì Đặng Thế Công mới dẫn quân đến nơi.

Thừa thế chiến thắng, anh em Trần Hưng Học, Trần Hưng Nhượng cũng dẫn quân bản bộ giao chiến với quân Nguyễn ở xã Tình Diễm, huyện Hương Sơn. Tháng Giêng năm Kỷ Hợi, niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 [1659], hai anh em lại hợp sức với đại quân, đánh phá quân Nguyễn ở Mã Yên. Đến lúc này, chiến dịch của quân Trịnh mới kết thúc. Hai huyện Thanh Chương và Hương Sơn trở về tay quân Trịnh.

Tháng Giêng nhuận, chúa Trịnh Tạc bàn thưởng cho trận đại thắng Tuần Lễ. Đào Quang Nhiêu được thăng Phó tướng, Thiếu úy, được quyền mở doanh, gọi là Tả Doanh quân, ban cho ấn của quân. Trịnh Đăng Đệ được thăng Hồng Lô tự khanh, tước Lễ Phái tử. Lê Thì Hiến được làm Thiếu bảo. Các tướng Đinh Văn Tả, Đàm Cảnh Kiên, Đào Thế Tiên, Lê Văn Đăng đều thăng Đô đốc đồng tri. Riêng Hân quận công Đặng Thế Công bị xét là rụt rè không chịu tiếp ứng, nên bị giáng làm Đô đốc thiêm sự. Thế Công trong trận Nam Hoa cũng vì chậm chạp mà được công, thì nay vì chậm chạp mà bị lỗi.

Hai bên lại bước vào một giai đoạn hưu chiến kéo dài. Từ đấu võ lực, họ chuyển sang đấu võ mồm. Tháng Hai năm đó, Phú quận công Trịnh Căn nổ phát súng đầu tiên. Trịnh Căn sai tiến sĩ Tấn Đức lấy danh nghĩa mình viết thư gửi cho chúa Hiền. Trong thư có nói:

Vả đường bệ tôn ti, ai có phận nấy. Đó là điều đương nhiên của lẽ trời, mà đạo người khó vượt. Lệnh công cũng đã biết rồi… Như nay tính kế, không gì bằng tu sửa lại nghiệp cũ của tiên vương, thư việc binh cách, ai nấy yên bờ cõi, khiến cho nhân dân được vui với việc cày ruộng, đào giếng. Há chẳng vĩ đại ư?”.

 Thư ấy được giao cho quân tuần bên Nguyễn ở bến đò Phù Thạch đem về. Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến, Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật xem thư, hết sức tức giận, nói:

– Trẻ ranh quận Phú miệng còn hôi sữa, dám dùng văn từ hí lộng thánh thượng ư?

Hai người không gửi thư đó về triều, mà làm thư đề tên Nguyễn Hữu Tiến, xưng chức tước là Hổ Uy đại tướng Thuận quận công để trả lời. Thượng tuần tháng Ba, hai người sai đưa thư qua phía bắc bến đò Phù Thạch, giao cho lính tuần bên Trịnh. Trong thư nói chuyện đời trước Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm kính trọng tình nghĩa, phân ranh chia đất. Nhưng đến sau này Đàng Ngoài lại gây việc binh đao. Chỉ lấy việc xâm lấn năm Mậu Tý [1648] làm ví dụ. Lúc đó quân Nguyễn đại phá quân Trịnh. Nếu có ý “được Lũng mong Thục” thì còn đợi gì đến ngày nay. Còn việc động tĩnh ra sao thì phải xem phía quân Trịnh, rồi bên Nam sẽ đối ứng phù hợp.

Trịnh Căn lại sai Tuấn Đức viết thư, ký tên là Trấn thủ Quảng quận công, rồi đem thư buộc vào đuôi tên lửa bắn sang đồn Khu Độc của Nguyễn Hữu Dật. Đầu thư nói: “Lễ không gì lớn hơn phận, phận không gì lớn hơn danh. Vì vậy quý ở chỗ chính danh phận, rồi sau mới định khen chê”. Kế đó bên Trịnh chê bai từ Nguyễn Kim sang Nguyễn Hoàng cho tới cha con Thụy quận công Nguyễn Phước Nguyên làm nhiều điều trái đạo, không chịu nộp cống. Vì thế mới ra quân để trách việc thiếu thuế. Họ Nguyễn “nói phò Lê mà trái lại phản vua Lê”. 

Thư còn giễu quân Nguyễn “nếu bảo thắng Kỳ Hoa rồi thu bảy huyện, thì khác gì bại Hương Bộc mà trốn Đại Nài”. Phía Trịnh còn nói: “Nếu không có nhà chép sử, thì lấy gì phân biệt đúng sai?”. Rồi dẫn sử sách (của bên mình) ghi chép về tội lỗi của họ Nguyễn. Cuối thư còn tuyên bố sẽ “quyết một trận chiến, để bình bọn đen đúa biên thùy, khôi phục bờ cõi của tiên vương”.

Nguyễn Hữu Dật đọc thư xong, giận quá, bèn đem thư đó tới đại doanh. Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến họp các tướng lại xem. Bọn Trấn thủ Phù Dương, Tống Hữu Đại, Tham tướng Nguyễn Phước Tráng, Cai cơ Trương Phước Hùng đều đòi sang sông đánh địch. Họ mắng rằng:

– Thảo khấu họ Trịnh! Tiện dân khinh vua! Sao dám buông lời tự đại. Bọn đệ xin Tiết chế hạ lệnh dẫn quân phá chúng, bắt quận Phú phanh thây vạn mảnh, cho vơi hận này!

Nguyễn Hữu Dật nói:

– Không nên. Bọn chúng đã dùng văn từ đáp lại chúng ta. Ta nên dùng thư trát đáp lại họ. Để khỏi cho người Bắc bảo Nam triều bọn ta thiếu người có văn chương, lý lẽ, chỉ cậy dũng đánh nhau mà thôi.

Mọi người bèn làm tờ hiểu thị ký tên Chưởng cơ Hùng Oai hầu Trương Phước Hùng gửi cho quận Quảng bên Trịnh. Trong thư ví việc Nguyễn Kim phò Lê như Quách Phần Dương giúp nhà Đường, mà họ Trịnh thì không khác Đổng Trác, Tào Tháo, cùng loại với Hồ Quý Ly. Lời thư còn lên án những lần quân Trịnh đánh Đàng Trong là do tự ý họ Trịnh. Rồi lại khoe chiến tích của mình đánh phá Lê Văn Hiểu, đuổi bọn Lê Hữu Đức, Trịnh Trượng, Đào Quang Nhiêu. Thượng tuần tháng Tư, bên Nguyễn sai người buộc thư vào đuôi mũi tên lửa, bắn sang lũy Đồng Hôn.

Từ tháng Tư đến tháng Năm, hai bên lấy danh nghĩa Quảng quận công và Hùng Oai hầu gửi thư trát qua lại. Bên Trịnh trách bên Nguyễn chống lệnh vua Lê. Bên Nguyễn chê bên Trịnh bức hiếp vua Lê. Cuối cùng Phú quận công Trịnh Căn thôi không phúc đáp nữa.

Trong thời kỳ đối lũy, hai bên thường tìm cách hạ nhục lẫn nhau. Bấy giờ bên lũy quân Nguyễn có cái chiêng lớn, tiếng vang xa mấy chục dặm. Phú quận công Trịnh Căn bèn hỏi:

– Ai có thể lấy cái chiêng ấy?

Đinh Văn Tả xin đi. Văn Tả dẫn theo 50 thủ hạ tới bên bờ sông, rồi sờ ngực từng người. Ai run rẩy, tim đập thì cho về. Chỉ có ba người tâm không loạn. Văn Tả cùng họ lội qua phía Nam sông Lam. Nhân lúc đêm tối, bốn người lẻn vào lũy quân Nguyễn, vác cái chiêng đem đi. 

Lúc bơi đến giữa sông, Đinh Văn Tả gõ chiêng. Người trong lũy giật mình tỉnh dậy, đuổi theo thì đã không kịp nữa. 

Thời nhà Nguyễn, Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án viết sách Tang thương ngẫu lục, có nhắc đến chuyện này, nhưng không dám nói đó là chuyện về quân Nguyễn, mà nói thác ra là chuyện ở làng bên. Người đời truyền rằng đền thờ Đinh Văn Tả có cái chiêng thần, tiếng vang xa hơn mười dặm. Con cháu ông hoặc tướng sĩ triều đình mỗi khi ra trận thường tới bái yết từ đường. Nếu thấy tiếng chiêng ngân khe khẽ như sấm rền thì nhất định sẽ thắng trận. Về sau gặp hồi loạn lạc, cái chiêng bị mất. Đó có lẽ là cái chiêng mà Đinh Văn Tả lấy được của quân Nam vậy. 

Quân Nguyễn bị mất cái chiêng, vô cùng tức giận. Đến hôm sau, họ đem hết quân qua sông cướp trại. Chưa biết thắng bại ra sao?

Chia sẻ câu chuyện này

Tác giả: Wong Trần
Minh hoạ: Minh Thảo Võ
Thiết kế và dàn trang: TRẦN VĂN HẬU

Share