Chúa Nguyễn Bắc phạt – Kỳ 19: Rút củi đáy nồi

Tác giả Wong Trần
Chúa Nguyễn Bắc phạt –  Kỳ 19: Rút củi đáy nồi

Quân Nguyễn bị trộm mất chiêng, nên tức giận lắm. Hôm sau, bèn dốc hết quân sang cướp trại quân Trịnh. Đinh Văn Tả đi đầu chống cự, tung hoành như bay. Quân Nguyễn bị đánh tan tác.

Thượng tuần tháng Tám năm Kỷ Hợi [1659], niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2, Tây Định vương Trịnh Tạc họp các mưu thần, để bàn việc dụ hàng Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật. Trịnh Tạc bảo rằng:

– Ta nghe nói ông Dũng [tức chúa Hiền] coi Chiêu Vũ như tâm phúc, bày mưu hiến kế, khiến quân ta mấy lần thua quân chết tướng. Phải dùng kế sách gì dụ hắn tới hàng, phản kích quân Nam, để diệt mối họa của ta.

Quận Dương tâu rằng:

– Lời bàn luận của vương thực cực hay. Thần nghe nói Chiêu Vũ là người có lòng trung thành, liêm khiết, thấy rộng bàn xa. Vương thượng hãy tuyển người giỏi ăn nói, thông kim bác cổ, mang theo báu vật làm lễ mời người hiền và mật thư do ngài tự ký tên, để thay bày tỏ tâm tình của vương. Như chuyện Huyền Đức ba lần tới lều cỏ. Thế thì Chiêu Vũ mới chịu động lòng, ắt sẽ hàng thôi.

Chúa Trịnh Tạc liền sai Cai đội Triều Hữu và Tiến sĩ Liêm Thanh mang theo mật thư, cùng với một túi trân châu, năm khối vàng mã đề, tới doanh Khu Độc đưa cho Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật. 

Hữu Dật đọc thư xong, muốn tương kế tựu kế, bèn bảo với hai người:

– Tháng sau xin vương tự dẫn quân đón tôi ở trên sông.

Sứ giả quay về rồi. Nguyễn Hữu Dật liền đem mật thư và lễ vật gửi về cho Chúa Hiền, và dâng khải nói rằng:

Thần và chúa thượng ơn như cha con. Sao dám có ý đồ khác? Nay muốn tương kế tựu kế để bắt tên giặc này. Chỉ sợ ý ấy không được hiểu rõ, thì tội không gì lớn bằng”.

Chúa Hiền hồi đáp Hữu Dật rằng:

Ta vốn biết khanh trung thành. Đồ tặng của người Trịnh, cô cho phép nhận. Chớ lo lắng về việc bị hiềm nghi”.

Tháng Chín năm Kỷ Hợi [1659], Tây Định vương Trịnh Tạc tự tiến mình lên làm Đại nguyên soái, Chưởng quốc chính, Thượng sư, Tây vương. Khi ấy có người tố cáo cha con Ký lục Hồ tên là Phạm Hữu Lễ ở Sơn Tây thông mưu với quân Nam Hà, muốn đợi lúc chúa Trịnh Tạc đưa quân vào Nghệ An, thì sẽ nổi dậy ở Đông Kinh để làm nội ứng. Chúa Trịnh Tạc bèn bắt cha con Phạm Hữu Lễ đem tra khảo, rồi chém đi.

Ký lục Phạm Hữu Lễ là nội ứng từ lâu của quân Nguyễn. Nhận được tin này, Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật tiếc nuối nói:

– Cha con Ký lục Hồ đều chết, mất cơ hội này, kế của ta khó thành. Đến khi nào mới thu phục được Trung Đô! Tiếc thay! Tiếc thay!

Rồi cho lập đàn tế vọng cha con họ Phạm.

Nguyễn Hữu Dật thấy kế sách của mình không thành, bèn soạn một lá thư đưa sang cho Phú quận công Trịnh Căn. Trong thư nói rõ mình quyết chí diệt Trịnh, chứ không chịu đầu hàng. 

Trịnh Căn đưa thư ấy về kinh. Chúa Trịnh Tạc đọc xong, cả giận, nói:

– Thất phu Chiêu Vũ sao dám nói năng xằng bậy, khinh ta quá đỗi. Xin các tướng vì ta kíp định kế sách, dốc đại quân cả nước, không cần biết là thời khắc nào, cứ vọt qua Nam Hà, bắt bọn Thuận, Chiêu chặt thành đống thịt nhão, để giải hận của ta.

Bấy giờ có Lan quận công bẩm rằng:

– Thần xin dẫn một cánh quân, thẳng qua phía Nam sông Lam, phá bọn Thuận, Chiêu, lấy đầu hai tướng ấy dâng nộp ở vương đình, cho thiên hạ yên ổn. Nếu như không thắng thề không đem quân về. Cho bọn tiểu khấu ấy thôi cậy mạnh, xem Trung Đô ta chẳng ra gì.

Chúa Trịnh Tạc cả mừng, bèn cho quận Lan làm Nguyên soái, Hùng quận công làm Tiên phong, kéo vào Nghệ An cùng đánh địch. Chợt có Bạt quận công Dương Trí Trạch can rằng:

– Không nên! Không nên! Quận Lan tuy có dũng lược, nhưng quân lính không có lòng chiến đấu. Huống hồ quân Bắc mấy phen thất bại. Quân Nam toàn thắng, đều chung chí vui chiến đấu. Nếu quân ta lại thua, trở lại sẽ bị quân Nam cười chê. Chi bằng cứ điềm nhiên bỏ qua, để khiến quân bên kia tự khoe dũng cảm, khinh quân ta là khiếp nhược. Ắt sẽ tự phụ mà không chuẩn bị. Thần có một kế, tuy quân ta không chiến đấu, nhưng quân Nam tự chạy, khiến chúng không còn manh giáp quay về. Đó gọi là kế giả yếu chống mạnh.

Chúa Trịnh Tạc hỏi:

– Kế sách ra sao?

Dương Trí Trạch đáp:

– Quân Nam đóng đồn tại bảy tám châu huyện Nghệ An, đã qua năm năm, ban hành nhiều mệnh lệnh mới, lập tuyển trường, thu thuế thân, tính số đất đang canh tác, đo ruộng để thu thuế tô. Quấy nhiễu trăm họ, tàn hại sinh linh. Nghiệm ra thì biết đã mất lòng dân. Lòng dân đã mất thì việc lớn khó thành. Thần xin sai người bí mật tung tin đồn, để binh, dân Nghệ An biết được sự lợi hại. Cổ nhân có câu: “Trong cái ấp mười nhà ắt có người trung tín”. Người nghĩ đến chữ Tín ắt sinh thù, người nghĩ đến chữ Trung ắt sinh oán. Nếu lòng người lay động, ắt quân lính tự phản thôi. Đó gọi là “anh em đấu đá bên trong, nhưng ra ngoài lại cùng chống lại sự hiếp đáp của người khác”. Cần chi phải phát binh chứ!

Chúa Trịnh Tạc khen kế sách ấy, sai Dương Trí Trạch thi hành. Trí Trạch liền sai mấy người tâm phúc lén sang sông Lam, tung giấy tờ hiểu dụ dân chúng rằng:

Trời có nhật nguyệt, đất có núi sông. Người có vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em. Tam cương, Ngũ thường là điều quan trọng nhất. Các ngươi đều sinh nơi đất Bắc, nhận ơn dưỡng dục của phương Khảm, không nghĩ đến việc báo đáp, mà còn bị người ta dụ dỗ. Tuy có người làm quan ở đất này, nhưng cha mẹ còn sống ở Trung Đô. Tuy có kẻ làm dân ở Nghệ An, nhưng anh em còn lưu nơi kinh ấp. Hoặc có kẻ vào quân ngũ, khổ bởi chiến tranh. Hoặc có kẻ làm dân phu, khốn vì tô thuế.

Huống hồ tướng Nam là Chiêu Vũ thì cậy tài tự kiêu căng, Thuận Nghĩa ỷ dũng mà bất trí. Hạng như Vân, Phù, Hùng, Đại đều là lục lục thường tài, chẳng phải anh hùng hào kiệt. Nếu như các ngươi đi theo, lâu dài về sau ắt vô ích thôi. Ta nghe nói chúa Nam tin dùng Chiêu Vũ như tâm phúc, coi các tướng như gỗ mục thôi. Chiêu Vũ đắc chí, tự cậy trí thuật hơn người, nên mới có lòng kiêu ngạo, coi tướng bên Nam như trêu đùa đứa trẻ.

Các ngươi là trượng phu, quân tử. Nếu nghĩ kỹ càng, nhớ điều nghĩa, mến oai thanh, yêu người thân, thì nên bí mật bày mưu, cùng nhau bàn luận. Thừa lấy cơ hội, tập họp binh dân, bắt các tướng giải nộp ở vương đình. Đó mới gọi là có chí anh hùng. Ta ắt trọng thưởng, ban cho lộc hậu; đều được trung hiếu lưỡng toàn, há chẳng tốt đẹp ư? Nay hiểu”.

Dân chúng Nghệ An nhặt được những tờ hiểu dụ ấy. Mỗi người một ý, thường cùng tranh luận với nhau. Lòng người dần dần li tán, mất dần ý chí chiến đấu. Lời hiểu dụ này còn nhằm chia rẽ Nguyễn Hữu Dật và các tướng bên Nam.

Tình hình quân sự xấu đi khiến Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật lo lắng. Trung tuần tháng Chín, một đêm Hữu Dật mơ thấy mình ngồi trên bàn đá bên ngoài lũy Khu Độc, buông cần trúc câu cá trên sông. Bỗng có cá cắn câu. Hữu Dật giật mạnh hai lần. Con cá lớn nhô đầu lên mặt nước, nhưng đuôi vẫn còn dưới nước. 

Chợt lại có một con cá lớn khác bơi tới, cắn đứt đuôi con cá mắc câu. Hữu Dật đang nghĩ cách bắt cá, thì chợt nhận thấy sau lưng có một cụ già. Cụ già đọc bốn câu thơ:

Công danh chỉ có thời
Ngồi câu nơi bàn đá
Có đầu mà không cuối
Sử sách ghi nửa tên.

Đọc xong, cụ già phất tay áo đi về hướng Nam. Hữu Dật đuổi theo, nhưng ông già đã đi xa. Hữu Dật thì rơi vào trong hố đá. Chưa biết sự việc sẽ ra sao?

Chia sẻ câu chuyện này

Tác giả: Wong Trần
Minh hoạ: Minh Thảo Võ
Thiết kế và dàn trang: TRẦN VĂN HẬU

Share