[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 11: Nẻo về cửa tử

[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 11: Nẻo về cửa tử

Kỳ trước, Hùng kể lại chuyến đi kinh hoàng đến ngôi chùa Khmer ở Tà Pạ, nơi mà gã phải gọi bằng cái tên Quỷ Môn.

Tôi hỏi lại: 

– Quỷ Môn? Ý anh là anh suýt chết ở đó? Tai nạn hay sao anh? 

Hùng đáp lạnh tanh: 

Quỷ, anh gặp quỷ, vong quỷ con nít trong những cái xác mèo. Mấy ông thầy trừ tà hay gọi là Vong Mèo!

Tôi ngồi dựa lưng xuống ghế, cảm giác muốn tìm một điểm tựa. Hình ảnh cái sân chùa đầy mèo lướt ngang ký ức, bất chợt làm da gà tôi nổi lộm cộm.

Đi cùng với Hùng là Thông, một người em trong hội săn lan đã cùng gã kinh qua nhiều vụ trải dài từ Nam Trung Bộ đến Miền Đông. Thông nhỏ hơn Hùng hai tuổi, dáng người cao to vạm vỡ, đầu húi cua, nước da ngăm đen, tay anh sần sùi những vết sẹo sau những chuyến phiêu lưu. Đôi mắt Thông nhìn rất giang hồ, sẵn sàng ăn tươi nuốt sống ánh nhìn của kẻ khác. Thông là người Phú Yên, vào Nam từ nhỏ, sống ở Biên Hòa với mẹ và người chị gái. Từ sau khi mẹ anh mất độ bảy năm trước, anh cũng bỏ nhà chuyển xuống Sài Gòn, rồi từ đó gặp Hùng và thành anh em. 

Hai người lần đầu đến An Giang, vùng đất linh thiêng Cửu Long với Thất Sơn oai linh và thâm trầm. Trước giờ Hùng chưa có dịp xuống đây, vì lan miền ngoài đã nhiều và dễ kiếm nên anh cũng chẳng để tâm Nam tiến làm gì, lần này nếu cực chẳng đã vì ngọc quý thì anh cũng không phải đến đây. Do không biết đường, loay hoay một hồi thế nào cứ vòng quanh Tri Tôn, họ dừng xe dưới một tán cây thốt nốt. Quang cảnh trước mắt Hùng thật yên bình với đồng lúa xanh và những dãy núi nằm im lặng dưới mây. 

Lúc này đã là năm giờ rưỡi chiều. Ánh nắng gay gắt còn sót lại chiếu vào mặt Hùng khi anh quay một vòng để nhìn toàn cảnh. Mắt anh nheo lại để nhìn cho rõ trái núi trước mặt mình, lưng chừng núi có một ngôi chùa Khmer. Dáng vẻ hùng vĩ được chống đỡ bằng những cột đá sừng sững càng làm cho nơi đó trở nên tráng lệ đến lạ thường trước nắng chiều. Hai người thấy vậy mới nảy sinh suy nghĩ là đêm nay tá túc ở đó, phần vì mây đen đang kéo đến và họ lại kẹt ở giữa vùng đồng không mông quạnh, chỉ có những nấm mồ làm bạn. Nghĩ là làm, họ nhanh chóng trực chỉ hướng ngôi chùa mà đi.

Binh lính Đàng Ngoài - tranh của Samuel Baron

Đường dẫn đến ngôi chùa là con đường đất, đủ cho hai xe chạy song song. Mặt đường còn hơi nhão do cơn mưa hôm qua. Hai bên là cỏ cao tới gần đầu gối, cứ chục mét lại có một cây thốt nốt. Núi nhìn thì gần nhưng do đường quanh co nên chạy cũng khá mất thời gian. Khoảng nửa tiếng sau, họ mới đến chân núi. Trước mặt Hùng là một con dốc, nghiêng chừng bốn mươi độ, mặt dốc phủ một lớp rêu mỏng, từ dưới dốc nhìn lên phía trên bị tán cây phủ cho nên không biết cuối đường là gì. Chỗ chân dốc có một cái cổng bằng xi măng, hai bên tạc hình thần thú sư tử kiểu Nam Tông. Trên cổng là tượng một vị Phật có ba mặt. Lan can là hai bức tượng quái xà chín đầu nhe nanh đầy hung dữ. Kế bên Hùng có một bó nhang cháy gần hết. 

Hùng nói, mắt nhìn vào con đường sâu hun hút:

– Này là đường âm.

Thông thắc mắc: 

– Là sao đại ca?

– Đường này thường dẫn đến khu nghĩa địa sau chùa. Họ xây một lối đi để hồn ma có thể từ trên đó đi xuống mà không phạm vào đường của con người. Dưới này có tượng Phật và rắn thần, mục đích là để ngăn bọn ma quỷ vào khu nghĩa địa quấy phá, ăn vong, có vậy người chết mới siêu thoát được. Mà anh thấy âm khí chỗ này quá nặng, tất nhiên sẽ có vong không chịu đi, thường sẽ trú ngụ trên mấy cái cây gần đó, hù dọa những người vô tình đi vào. Mày thấy mấy cái vết rêu bong ra không? Do người ta bị nhát, té lăn từ trên đó xuống đó.

 Nói đoạn, Hùng lấy một viên đá, khắc lên dòng chữ “Cấm chạy xe lên”, bên con sư tử còn lại là chữ “Stop”.

Xong xuôi, anh đứng nhìn một lát nữa, thấy vừa ý mới quay sang nói với Thông: 

– Anh với mày cất xe ở đây, rồi đi bộ lên.

Thông đã quá quen với tính khí của Hùng nên anh cũng không buồn hỏi nữa. Hùng làm vậy hẳn phải có lý do. Có vẻ như anh đánh hơi được gì đó trong cái không gian đặc sệt âm khí này. Còn chiếc xe, quá tồi tàn để bọn trộm có thể để ý, một chiếc Wave nát. Hai người để nó vào một bụi cây, rồi thận trọng bước lên con dốc đầy rêu. Tuy hơi trơn, nhưng do mặt dốc gồ ghề, cộng với đế giày bám nên họ đi cũng không khó khăn lắm. Vừa đi, Hùng vừa đọc lầm rầm một bài chú bằng tiếng Phạn, tay nắm chặt cây dao găm. Thông cũng làm tương tự. Họ hành sự chung với nhau nhiều năm rồi nên có những chuyện không cần phải nhắc. 

Con dốc nhìn từ dưới lên thì chỉ thấy tối, nhưng khi đi lên còn thấy cả lạnh, cảm giác lưng đổ mồ hôi như có ai đang đu trên người mình vậy. Tán cây rậm rạp thỉnh thoảng lại kêu xào xạc như có con gì đó đang di chuyển. Còn chừng ba mươi mét nữa là hết con dốc thì Hùng đã thấy thấp thoáng chánh điện của chùa. Lúc này bỗng nhiên da gà cả hai người đều nổi rần rần, họ nghe tiếng con nít khóc bỗng vang lên ngay sau lưng. Kiểu khóc thút thít giống như sắp hết hơi, kèm theo cảm giác uất nghẹn khó tả. Thông nhìn Hùng để xác nhận anh có nghe được không, Hùng khẽ gật đầu, khoát tay ra hiệu làm dấu là đừng để ý, anh biết là nếu lúc này quay lại, sẽ bị  hù đến hồn xiêu phách lạc, thậm chí bị giấu.

Không gian đang im lặng đến ngột ngạt đầy đáng sợ, đột nhiên có tiếng thét vang lên làm Thông choáng váng nhắm mắt bịt tai lại rồi ngồi thụp xuống. Tiếng thét im bặt cũng nhanh như lúc nó đến, Thông từ từ mở mắt. Lúc này con dốc như biến mất, anh thấy mình đang đứng giữa một khu rừng, xung quanh phủ đầy sương mù, trên đầu là những cành dây leo đan nhau dày đặc. Mặc dù đã kinh qua những chuyện tương tự như lúc này, tuy nhiên sự việc xảy ra quá đột ngột ở một vùng đất nổi tiếng linh thiêng khiến Thông không tránh khỏi cảm giác lo sợ. Đưa mắt nhìn kỹ, những đám dây leo thực ra là những chùm ruột còn nhỏ máu, lá trên cây là những mảnh da như mới được xé ra. 

Tiếng khóc như vang vọng trong không gian không xác định được chính xác vị trí bỗng nhiên xuất hiện trở lại ngay sau lưng Thông, anh nhanh chóng quay người ra sau, tay lăm lăm cây dao găm, nhưng trước mặt anh chỉ có đứa bé đang cúi mặt khóc. Đứa bé độ sáu bảy tuổi, da trắng bệch, còi cọc, trên người chỉ có mỗi chiếc quần đùi. Còn chưa biết làm sao, đứa bé đột nhiên nín bặt, ngẩng mặt lên nhìn Thông, tuy môi nó không mở ra nhưng anh vẫn nghe trong đầu vang lên tiếng nói:

Khuôn mặt thằng bé đầy vết như bị cào, cắn, thịt rách ra từng mảng rất nham nhở, hố mắt sâu hoắm đen thui, tròng mắt đã bị móc ra. Bỗng cú tát như trời giáng làm Thông tỉnh dậy. Anh đang nằm trên nền đất, phía dưới một kiến trúc tháp Khmer. Có vẻ anh vừa ngất đi một lúc và Hùng đã tát để anh tỉnh lại. Đỉnh con dốc là cổng vào khu nghĩa địa của chùa, đúng như Hùng nói. 

Thông vừa xoa má vừa hỏi:

– Em bị sao vậy anh?

– Nó phá mày chứ gì. Lúc nãy mày ngưng niệm chú đúng không?

Thông khẽ gật đầu, đúng là thật hung hiểm. Lúc nãy đang leo lên gần đến đỉnh, Thông đột nhiên ngã lăn ra bất tỉnh. Hùng nhanh chóng kéo anh theo. Lên đến nơi mới dùng gừng xoa quanh mũi và tát để Thông tỉnh dậy. Thường khi bị vong phá như vậy, trong cơn mơ nạn nhân sẽ bị hù dọa. Nhẹ thì tỉnh tỉnh mê mê hoặc tâm thần, nặng thì có thể vỡ mật mà chết, như vậy sẽ thế chỗ cho ác vong đó, làm cho nó mạnh hơn. Hai người đứng dậy, sửa soạn lại đồ đạc. Lúc này Hùng mới quay qua giải thích với Thông: 

– Tao nghe mùi kỳ nam lẫn trong mùi tử thi. Đâu đó quanh đây có kỳ nam là phen này vố đậm đó mày.

– Anh đoán hay sao? Sao em không phát hiện gì hết?

Hùng tra dao găm vào bao, nhìn xung quanh một lượt rồi trả lời: 

– Không, anh biết chắc. Kiến trúc chùa Khmer, cổng vào thường là tượng thần Brahma bốn mặt. Phía dưới con dốc chỉ có ba mặt thôi, không có mặt hướng lên dốc, cộng với con rắn tám đầu. Đó không phải loài rắn tốt. Nó tượng trưng cho ma quỷ, cái ác. Mới đầu anh nghĩ con dốc này là đường âm như các chùa Khmer bình thường, nhưng sau đó anh thấy con đường này có chủ đích khác. Nơi này chính xác là một cái lăng mộ lộ thiên. Tuy nhiên không phải chôn người bình thường mà là chôn những người tùy táng, nô lệ hoặc những người lúc sống bị coi là quỷ. Để trấn yểm những người đó, trong lăng mộ chính thường có một cái đinh bằng gỗ kỳ nam, chạm khắc Phật hoặc thần Bà La Môn. Đồ đáng giá đó.

– Có phải những chỗ đó thường có rất nhiều mèo, chôn chung với chủ mộ. Mục đích là để mèo ăn phần xác, chia nhỏ hồn phách của chủ mộ để không được siêu thoát. Những con mèo đó là vong mèo, sau đó sẽ khoét đất chui ra ngoài lại đúng không anh?

Hùng gật đầu. Thông nói tiếp: 

– Sao em không thấy mèo?

Hùng đứng sang một bên, phía sau anh là một phần tháp mộ, chỉ lộ ra phần đỉnh tháp. Phần thân bị bùn đất lấp đầy, dây leo đan kín. Đỉnh có một lỗ hổng lớn, xung quanh được dán những lá bùa vàng to bằng bàn tay. Hai sợi dây thừng nhỏ màu đỏ quấn dài từ đỉnh tháp xuống. Thông nhìn kỹ thì thấy bên trong lỗ hổng, trên đỉnh hay bên dưới tháp, những cặp mắt xanh nhìn trừng trừng ra hai người họ – là bọn mèo. Có con nằm ở ngoài, có con núp sau tán cây, có con đang đu mình trong lỗ hổng ở đỉnh tháp.

Hùng trầm ngâm, lấy một cuốn sổ nhỏ ra xem gì đó rồi nói: 

– Nếu đúng như anh nghĩ, vố này đậm nhưng hơi căng. 

Thông trố mắt ra hỏi căng vụ gì, Hùng lặng lẽ nhìn vào cái tháp hoang phế rồi nói: 

– Dưới này, nếu anh đoán đúng, là truyền thuyết đã lãng quên của vùng Thất Sơn. Gần đây có cái hồ đá, gọi là hồ Tà Pạ, dưới tháp này là tiên cá của hồ đó.

Chỉ một thoáng phân tâm đã khiến Thông suýt bị vong hù đến mất hồn, nhưng tin vui là Hùng đã đánh hơi thấy chùa này có kỳ nam. Tuy nhiên để lấy được vật quý, hai gã giang hồ sẽ phải trả cái giá gì? Mời bạn theo dõi kỳ sau sẽ rõ.

Binh lính Đàng Ngoài - tranh của Samuel Baron
Share