Bờ Đông của Trung Quốc còn có một bờ biển dài 32,000 cây số, tức là gấp 10 lần bờ biển của Việt Nam. Nhưng sự thật là ban đầu, người Trung Hoa không tận dụng bờ biển này để giao thương. Từ lâu, người Hán vốn ưa chuộng giao thương về phía Tây. Họ thích làm ăn theo Con đường Tơ lụa, tức là đi về phía Trung Á, đi qua châu Âu theo đường bộ, dù có nhiều khó khăn và phải vượt vùng sa mạc hiểm trở. Nhưng đó là cách cha ông họ đã giao thương hàng nghìn năm.
Tuy nhiên đến đầu thế kỉ 20, gió đổi chiều. Lúc này Anh Quốc, với sự bành trướng và quyền lực khắp nơi, đã tạo sức ép, dưới nhiều hình thức, buộc Trung Quốc phải mở rộng giao thương đường biển. Hệ quả là các thành phố bên phía Đông trở nên sầm uất, hưng thịnh, phất lên như diều trong thời gian ngắn, để lại vùng phía Tây nghèo nàn và lạc hậu.
Nhận thấy vấn đề đó, sau Thế chiến thứ Hai, Đảng Cộng sản Trung Hoa, với chủ trương mang lại sự cân bằng, đã hạn chế giao thương bên bờ Đông, đóng cửa với bạn bè, tái thiết quốc gia. Và phần nào điều đó đã cho họ điều họ muốn, lúc này kinh tế bờ Đông bị kìm hãm, và “nghèo” như bờ Tây. Đương nhiên điều này dù mang lại sự “đồng bộ” và “bình đẳng”, nhưng không phải là giải pháp xu thế. Trung Quốc không thể đóng cửa mãi được. Nhận thấy vấn đề, cộng với tiềm lực khủng khiếp của bờ biển, các lãnh đạo Trung Quốc lại mở cửa đón khách, và họ đã để cánh cửa này mở cho đến tận ngày nay.
Mọi thứ bắt đầu từ chính sách mở cửa năm 1979. Năm đó, Đặng Tiểu Bình trở thành chính trị gia Trung Quốc đầu tiên làm ăn với Mỹ. Và lịch sử lặp lại, phía Đông, lúc này đã dồi dào nguồn lực dân số, lại được mở cửa giao thương nên đã giàu lên với tốc độ chóng mặt, bỏ lại vùng phía Tây khô cằn sỏi đá. Có thể thấy, phía Đông là nơi tập trung các khu công nghiệp, các thành phố cảng tấp nập, các cơ quan đầu não của những doanh nghiệp lớn về tài chính, bất động sản, khoa học kỹ thuật, và sẽ không khó hiểu khi dòng tiền đều đổ về đây như “nước chảy chỗ trũng”.
Tóm lại, nói đơn giản, Trung Quốc đã mắc phải lời nguyền của địa lý là “Trời” đã ban cho họ một vùng phía Đông có khí hậu tuyệt vời và cả một bờ biển dài và lại lấy đi mọi thứ ở phía Tây. Chính điều đó đã “làm lệch tấm ván gỗ” về mọi mặt. Và nó dẫn chúng ta đến bản đồ tiếp theo – sự phân hóa giàu nghèo ở Trung Hoa.
Tưởng tượng một bản đồ với những mảng xanh và cam. Những khu vực được đánh dấu màu xanh là những khu có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn mức trung bình, trong khi đó màu cam cho thấy sự ngược lại. Vùng xanh càng đậm thì có nghĩa khu vực đó càng giàu. Rõ ràng, phần lớn của cải, tài sản của dân Trung Quốc tập trung ở phía bờ Đông, nơi nhiều màu xanh, trong khi đó người nghèo phần lớn tập ở vùng phía Tây, nơi phủ màu cam.
Có một xu hướng, bạn có thể nhận ra, màu cam sẽ dần chuyển dịch thành màu xanh theo hướng từ Đông sang Tây, tức là từ trong lòng Trung Hoa ra đến bờ biển. Hiểu nôm na là người giàu nhất sẽ là những người ở sống tại cách thành phố cảng. Hoặc hiểu đơn giản hơn, gần như toàn bộ tài sản của quốc gia này tập trung ở phía Đông.
Ông Tập và các cộng sự của mình hiểu rằng một xã hội quá phân hóa sẽ kéo theo nhiều hệ luỵ. Nó sẽ đặt mọi áp lực về hạ tầng và y tế lên các thành phố vốn đã quá tải trầm trọng. Một quốc gia với những sự chênh lệch rõ ràng và tồn đọng như vậy thực sự giống như một quả bom hẹn giờ có thể nổ bất cứ lúc nào. Nói cách khác, mất cân bằng xã hội là mồi lửa của những cái đầu nóng, cụ thể những cộng đồng thiểu số, tầng lớp lao động nghèo. Khi không còn lựa chọn nào khác, họ sẽ phải “xuống đường” và “giơ cao khẩu hiệu”. Đó là điều mà ông Tập chắc chắn sẽ làm mọi cách để không xảy ra.