Đường kẻ kinh điển và vận mệnh của Trung Hoa

Tác giả La Gia Thịnh
Đường kẻ kinh điển và vận mệnh của Trung Hoa

Hãy lấy ra tấm bản đồ Trung Quốc, sau đó tìm hai địa danh Blagoveshchensk (ở phía Bắc, gần biên giới Nga) và Tengchong (ở phía Nam, gần biên giới Myanmar). Giờ hãy vẽ một đường thẳng nối 2 vị trí này. Toàn bộ diện tích bên phải phần đường kẻ này chỉ chiếm 35% tổng diện tích quốc gia, lại là nơi sinh sống của phần lớn dân số Trung Hoa.

Năm 1935, nhà nhân khẩu học người Trung Quốc tên Hu Huanyong (Hồ Hoán Dung) là người đầu tiên vẽ ra đường kẻ này, và phần còn lại là lịch sử. Cũng bởi tính thời sự và tính cách mạng quá lớn, giới nghiên cứu đã không ngừng chiêm nghiệm, phân tích, và khai thác đường kẻ này. Theo thời gian nó được biết đến rộng rãi với tên gọi The Hu Line. Một nét cắt đơn giản đã “xé đôi” dân tộc Trung Hoa, vạch ra một vấn đề trần trụi và nhức nhối của quốc gia này – sự chênh lệch. 

Tất cả chúng ta đều biết rằng xã hội Trung Quốc hiện đại, một guồng máy khổng lồ với hơn 1,4 tỷ người, đang phải đối mặt với hai sự phân hoá quá lớn, giàu-nghèo và thành thị – nông thôn. Đương nhiên là ở quốc gia nào thì cũng có những sự phân hóa chứ không riêng gì Trung Quốc. Tuy nhiên, câu chuyện của Trung Quốc đáng nói, vì đây không chỉ là nơi có hơn hơn 1/7 dân số thế giới đang sinh sống mà là vì bản thân quốc gia này với những sự chuyển mình mạnh mẽ suốt vài thập kỷ “ngủ quên” qua đã làm cả thế giới dè chừng. Do đó, lúc nào các vấn đề của quốc gia tỷ dân cũng là một case study thú vị, cần được bàn sâu hiểu kỹ. Hiểu được Trung Quốc là hiểu được thời cuộc.

Đường kẻ nguyên bản trong bài báo năm xưa

The Hu Line được tác giả công bố lần đầu tiên trên tạp chí Chinese Journal of Geography vào năm 1935, với mục đích chỉ ra sự mất cân bằng về cơ cấu dân số quốc gia tỉ dân. Cũng cần nói thêm là thời điểm những năm 30 của thế kỉ trước, dân số Trung Hoa “chỉ” gần nửa tỉ thôi, chứ chưa tới mức đáng sợ như hiện này. Có thể thấy, 94% dân số nước này sống ở bờ Đông, trong khi đó chỉ vỏn vẹn 6% còn lại an cư bên bờ Tây. Một sự chênh lệch quá khủng khiếp nếu biết rằng diện tích của bên Tây là 64%, tức lớn hơn nhiều so với bên Đông. 

Trên thực tế, The Hu Line chỉ là một đường kẻ trên giấy, hoặc chỉ sống trong trí tưởng tượng của những người nghiên cứu về Trung Hoa. Bạn sẽ không thể nào tìm thấy bất kì một dấu mốc thực tế nào đánh dấu sự tồn tại của nó. Về địa lý, đường kẻ này chạy dọc một khoảng cách dài gần 3750 cây số chạy từ Bắc xuống Nam, từ thị trấn biên giới Hắc Hà, dọc xuống tới khu đồi núi phía Nam gần biên giới Myanmar. Mặc dù cơ cấu dân số và diện tích Trung Quốc đã thay đổi liên tục suốt thời gian qua, nhưng sự thực thì sau gần một thế kỷ, về cơ bản, sự chênh lệch vẫn còn nguyên đó. 

Theo số liệu thống kê năm 2015, phần phía Đông của The Hu Line, với diện tích chiếm 43% tổng diện tích quốc gia, là nơi ở của 94% dân số Trung Quốc, tức là gần 1,3 tỷ người. Mật độ dân số bên phía Đông 315 người/km2, so với mức bình quân quốc gia, 153 người/km2. Sự chênh lệch khủng khiếp này là khó chấp nhận và vận mệnh của siêu cường này tùy thuộc vào việc họ sẽ làm gì để “xóa nhòa”, hay ít ra là “đẩy” được The Hu Line về phía Tây càng nhiều càng tốt. 

Lý do đằng sau toàn bộ sự chênh lệch này không gì ngoài địa lý. Nếu hiểu rõ, bạn sẽ thấy Trung Quốc cũng mắc phải một lời nguyền của địa lý. Đầu tiên, phải kể đến thời tiết và đất đai thổ nhưỡng. Nói cách khác, đất lành thì chim đậu. Nửa phía Đông có các khu đồng bằng rộng lớn, với hệ thống sông ngòi dày đặc, khí hậu ẩm quanh năm phù hợp cho việc trồng trọt và canh tác, đủ sức đáp ứng nhu cầu lương thực cho hàng trăm triệu cái bụng đói. 

Ngược lại, bên Tây được biết đến là miền Viễn Tây hoang dã , là địa bàn của những sa mạc khô cằn, các vùng núi cao, cản trở phát triển nông nghiệp. Vùng bờ Tây này ôm trọn cả hai sa mạc Gobi và Taklamakan rộng lớn. Và rồi, như lẽ tự nhiên, người ta ồ ạt kéo về phía Đông để định cư. Ngày nay, 4 trên 5 thành phố đông dân nhất Trung Quốc nằm ở bờ Đông.

Sự phân bố không đồng đều của dân số Trung Hoa

Bờ Đông của Trung Quốc còn có một bờ biển dài 32,000 cây số, tức là gấp 10 lần bờ biển của Việt Nam. Nhưng sự thật là ban đầu, người Trung Hoa không tận dụng bờ biển này để giao thương. Từ lâu, người Hán vốn ưa chuộng giao thương về phía Tây. Họ thích làm ăn theo Con đường Tơ lụa, tức là đi về phía Trung Á, đi qua châu Âu theo đường bộ, dù có nhiều khó khăn và phải vượt vùng sa mạc hiểm trở. Nhưng đó là cách cha ông họ đã giao thương hàng nghìn năm. 

Tuy nhiên đến đầu thế kỉ 20, gió đổi chiều. Lúc này Anh Quốc, với sự bành trướng và quyền lực khắp nơi, đã tạo sức ép, dưới nhiều hình thức, buộc Trung Quốc phải mở rộng giao thương đường biển. Hệ quả là các thành phố bên phía Đông trở nên sầm uất, hưng thịnh, phất lên như diều trong thời gian ngắn, để lại vùng phía Tây nghèo nàn và lạc hậu. 

Nhận thấy vấn đề đó, sau Thế chiến thứ Hai, Đảng Cộng sản Trung Hoa, với chủ trương mang lại sự cân bằng, đã hạn chế giao thương bên bờ Đông, đóng cửa với bạn bè, tái thiết quốc gia. Và phần nào điều đó đã cho họ điều họ muốn, lúc này kinh tế bờ Đông bị kìm hãm, và “nghèo” như bờ Tây. Đương nhiên điều này dù mang lại sự “đồng bộ” và “bình đẳng”, nhưng không phải là giải pháp xu thế. Trung Quốc không thể đóng cửa mãi được. Nhận thấy vấn đề, cộng với tiềm lực khủng khiếp của bờ biển, các lãnh đạo Trung Quốc lại mở cửa đón khách, và họ đã để cánh cửa này mở cho đến tận ngày nay. 

Mọi thứ bắt đầu từ chính sách mở cửa năm 1979. Năm đó, Đặng Tiểu Bình trở thành chính trị gia Trung Quốc đầu tiên làm ăn với Mỹ. Và lịch sử lặp lại, phía Đông, lúc này đã dồi dào nguồn lực dân số, lại được mở cửa giao thương nên đã giàu lên với tốc độ chóng mặt, bỏ lại vùng phía Tây khô cằn sỏi đá. Có thể thấy, phía Đông là nơi tập trung các khu công nghiệp, các thành phố cảng tấp nập, các cơ quan đầu não của những doanh nghiệp lớn về tài chính, bất động sản, khoa học kỹ thuật, và sẽ không khó hiểu khi dòng tiền đều đổ về đây như “nước chảy chỗ trũng”.

Tóm lại, nói đơn giản, Trung Quốc đã mắc phải lời nguyền của địa lý là “Trời” đã ban cho họ một vùng phía Đông có khí hậu tuyệt vời và cả một bờ biển dài và lại lấy đi mọi thứ ở phía Tây. Chính điều đó đã “làm lệch tấm ván gỗ” về mọi mặt. Và nó dẫn chúng ta đến bản đồ tiếp theo  – sự phân hóa giàu nghèo ở Trung Hoa. 

Tưởng tượng một bản đồ với những mảng xanh và cam. Những khu vực được đánh dấu màu xanh là những khu có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn mức trung bình, trong khi đó màu cam cho thấy sự ngược lại. Vùng xanh càng đậm thì có nghĩa khu vực đó càng giàu. Rõ ràng, phần lớn của cải, tài sản của dân Trung Quốc tập trung ở phía bờ Đông, nơi nhiều màu xanh, trong khi đó người nghèo phần lớn tập ở vùng phía Tây, nơi phủ màu cam. 

Có một xu hướng, bạn có thể nhận ra, màu cam sẽ dần chuyển dịch thành màu xanh theo hướng từ Đông sang Tây, tức là từ trong lòng Trung Hoa ra đến bờ biển. Hiểu nôm na là người giàu nhất sẽ là những người ở sống tại cách thành phố cảng. Hoặc hiểu đơn giản hơn, gần như toàn bộ tài sản của quốc gia này tập trung ở phía Đông. 

Ông Tập và các cộng sự của mình hiểu rằng một xã hội quá phân hóa sẽ kéo theo nhiều hệ luỵ. Nó sẽ đặt mọi áp lực về hạ tầng và y tế lên các thành phố vốn đã quá tải trầm trọng. Một quốc gia với những sự chênh lệch rõ ràng và tồn đọng như vậy thực sự giống như một quả bom hẹn giờ có thể nổ bất cứ lúc nào. Nói cách khác, mất cân bằng xã hội là mồi lửa của những cái đầu nóng, cụ thể những cộng đồng thiểu số, tầng lớp lao động nghèo. Khi không còn lựa chọn nào khác, họ sẽ phải “xuống đường” và “giơ cao khẩu hiệu”. Đó là điều mà ông Tập chắc chắn sẽ làm mọi cách để không xảy ra.

Thế nên, một trong những ưu tiên hàng đầu lúc này là phải vừa hạn chế vấn đề nhập cư của người thôn quê vào thành phố lớn, vừa phải bảo đảm an sinh xã hội, công ăn việc làm cho người nông thôn, ổn định sức mua ở các đô thị, và đầu tư phát triển hạ tầng đồng đều ở khắp các thành phố từ Đông sang Tây. Đây là một thử thách cực đại với giới lãnh đạo Trung Quốc vì dân số nông thôn ở đây năm 2021, theo số liệu của World Bank, là gần 530 triệu người, chiếm 37,5%. Vấn đề đã được nhận thấy từ rất lâu. 

Năm  1999, Giang Trạch Dân, Cựu chủ tịch CHND Trung Hoa đã đề ra kế hoạch Phát triển phía Tây (‘Develop the West’ campaign). Và rồi sau này, chính ông Lý Khắc Cường – Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa – cũng đã nhiều lần nhắc đến sự cần thiết của việc nỗ lực xóa bỏ đi đường kẻ của học giả Hu Huanyong, từ đó hiện đại hóa nửa Tây của quốc gia này. 

Hơn ai hết, những nhà lãnh đạo Trung Quốc gần nhất hiểu được tầm quan trọng của việc hạn chế sự chênh lệch này, về cả mặt dân số và thu nhập bình quân đầu người. Họ hiểu rằng sau khi vượt qua “Màn 1″ là mở mang bờ cõi và thống nhất các dân tộc anh em, giờ là lúc họ chơi “Màn 2” khoai hơn là mang lại thịnh vượng ấm no cho hàng tỷ người, dù có là người Hán hay không. 

Trước khi nghĩ tới việc khẳng định tham vọng trở thành siêu cường số 1 trong thế kỷ 21, Trung Quốc hiểu rằng họ cần giải quyết những vấn đề của chính mình, làm dịu những sự bất an và phẫn nộ của hơn 1,4 tỉ con người đang hằng ngày cày cuốc để quay cái guồng máy khổng lồ mang tên Trung Hoa.

Chia sẻ câu chuyện này

Thiết kế: Gia Thuần

Share