Hoa cài mái tóc

Tác giả xnghiem
Hoa cài mái tóc
HoaCaiMaiToc

Hoa cài lên mái tóc, dâng lễ thờ cá Ông, cúi đầu thần Độc Cước. Trên những con sóng bạc đầu, từ Bắc vào Nam, hình ảnh những vị thần biển luôn hiện hữu trong tâm thức người dân Việt. Họ là những người cha, người mẹ hiền hậu, dang rộng vòng tay bảo vệ những ngư dân dũng cảm ra khơi, đối mặt với sóng gió.

TỪ TẬP TỤC ĐẾN TRÀO LƯU

Có một dạo nào đó, trên khắp các trang mạng xã hội nở rộ lên trào lưu “Kiếp này cài hoa lên tóc, kiếp sau mỹ mạo như hoa”. Rồi lại có tin khác rộ lên rằng đội vòng hoa là để hiến tế cho những người chồng sắp ra khơi.

Kỳ thật, trào lưu cài hoa xuất phát từ tập tục đội hoa của nữ giới làng chài Xunpu ở Phúc Kiến khi đến cúng tế Ma Tổ. Trong lòng người dân Phúc Kiến, Ma Tổ là nữ thần vô cùng dịu dàng, bác ái. Người thích các cô gái trang điểm xinh đẹp khi đến gặp người. Vậy nên vào các dịp lễ hay đến miếu cầu nguyện, người dân ở Phúc Kiến sẽ cài những vòng hoa rực rỡ lên tóc để xinh đẹp đến gặp Ma Tổ. Một thần nữ yêu thương, sẵn sàng hi sinh vì chúng sinh sẽ không thể là vị thần để phụ nữ Tuyền Châu dâng chính bản thân mình làm vật tế. 

Ma Tổ, còn được biết đến là Thiên Hậu Nương Nương, là một vị thần thiêng liêng trong tín ngưỡng dân gian. Theo học giả Vương Hồng Sển, tên thật của bà là Lâm Mặc Nương, quê tại tỉnh Phúc Kiến, sinh dưới triều đại Tống Nhân Tông. Mẹ bà mang thai đến 14 tháng mới hạ sinh. Ngay từ nhỏ, Lâm Mặc Nương đã nổi bật với sự thông minh vượt trội: mới 8 tuổi đã biết đọc sách, 11 tuổi đã tìm đến Phật pháp để nương nhờ. Đến năm 13 tuổi, bà được thần Võ Y ban cho bộ Nguyên vị bí quyết và may mắn tìm được một xấp cổ thư dưới giếng. Từ đó, bà bắt đầu luyện tập và đạt được đạo hạnh cao.

Bà còn có khả năng xem thiên văn để giúp đỡ ngư dân tại đảo Mi Châu mỗi khi ra khơi. Có một lần, khi cha bà là Lâm Nguyện cùng hai anh trai đang vận chuyển muối thì gặp phải bão lớn. Lúc đó, Lâm Mặc Nương đang ngồi dệt vải bên mẹ và trong giấc mơ, bà đã xuất thần để cứu cha và hai anh. Bà nắm chặt chéo áo cha và giữ tay hai anh, nhưng khi mẹ gọi tỉnh dậy, bà chỉ kịp cứu hai anh, còn cha bà bị sóng cuốn trôi mất. Kể từ đó, mỗi khi thuyền bè gặp nạn trên biển, người dân đều thành tâm cầu khấn bà để được bảo vệ. Năm Canh Dần, triều đình nhà Tống đã chính thức phong tặng bà danh hiệu Thiên Hậu Thánh Mẫu.

Còn theo bảng viết tại miếu Thiên Hậu ở Vĩnh Long thì Bà Thiên Hậu, hay còn gọi là A Phò (Đức Bà) theo cách gọi của người Quảng Đông, là một nữ thần được tôn kính trong tín ngưỡng dân gian. Các triều đại phong kiến Trung Quốc đã phong tặng bà danh hiệu Thiên Hậu Thánh Mẫu, trong khi người Phúc Kiến và Hải Nam thường gọi bà là Đại Mẫu.

HoaCaiMaiToc
Ma Tổ, còn được biết đến là Thiên Hậu Nương Nương, là một vị thần thiêng liêng trong tín ngưỡng dân gian.

Truyền thuyết kể rằng khi Thiên Hậu sinh ra, suốt cả tháng bà không hề khóc, vì thế mới được đặt tên là Mặc Nương. Từ khi bốn, năm tuổi, bà đã bộc lộ sự thông minh xuất chúng, đến tám tuổi đã theo thầy học và nhanh chóng nắm vững mọi sách vở, giỏi giang trong việc giải nghĩa văn tự. Khi lớn lên, bà quyết định không lấy chồng, dành trọn cuộc đời để làm việc thiện và cứu giúp mọi người. Bà còn nghiên cứu y lý, chữa bệnh và phòng chống dịch bệnh cho dân chúng.

Sinh trưởng tại vùng biển, bà thông thạo thiên văn, khí tượng, và thủy tính, nên thường giúp các thuyền buôn và thuyền đánh cá tránh khỏi hiểm nguy. Vào năm Đinh Hợi (987), Tống Thái Tông, trong năm thứ Tư, niên hiệu Ung Hi, vào một buổi chiều tối ngày mùng chín tháng chín, Thiên Hậu đã lên Mi Sơn. Từ xa vang lên tiếng nhạc tiên đưa đón, và bà đã thoát phàm thai, nhập thánh thai, trở thành một vị thần bất tử.

Trong hành trang đến đất phương Nam, ngoài kinh nghiệm buôn bán, làm ăn, sản xuất thuốc Bắc trị bệnh, người Hoa còn mang theo tín ngưỡng dân gian thờ Bà Thiên Hậu. Ở xứ sở này, bà được thờ nhiều ở những vùng ven biển Nam Trung Bộ. Ở các cửa sông, dọc theo cửa biển, không hiếm để thấy những miếu nhỏ thờ bà.

Vì là một phụ nữ, người ta tin rằng bà còn có khả năng cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh, đặc biệt là nữ giới. Ở các đền thờ bà tại Việt Nam, bà thường được phối thờ với Việt thành Thủy Khẩu Long Mẫu Nương Nương (Nữ thần vùng biển Quảng Đông. Dân chài rất tin tưởng, thờ cúng bà và cầu cứu bà khi gặp nạn ngoài biển) và bàn thờ Kim Hoa Phổ Chủ Huệ Phước phu nhân (Thần chủ quản việc sinh đẻ). Ngoài ra, miếu còn có bàn thờ Thiên địa mẫu, Quan Âm Bồ Tát, Môn Quan, Phước Đức Chánh Thần, Tài Bạch Tinh Quân, Quan Thánh Đế Quân. 

Ba miền Nam Trung Bắc, dọc theo bờ biển Việt Nam, đâu đâu cũng có riêng một vị thần biển đặc trưng của mảnh đất đó như một sự quy phục của con người dành cho thiên nhiên.

ĐỘC ĐÁO VỊ THẦN MỘT CHÂN

Vùng ven biển từ tỉnh Thanh Hoá trở ra đến Quảng Ninh, người ta thờ thần Độc Cước (nghĩa là thần một chân). 

Tương truyền rằng, nơi vùng biển khơi xa xăm ở vùng Sầm Sơn, có một loài quỷ đỏ với thân hình trần trụi, mõm dài và răng nhọn hoắt, luôn khao khát máu thịt con người. Những con quỷ này, như những bóng ma trong đêm đen, thường xuyên lén lút trở về vùng Sầm Sơn, Thanh Hóa, gieo rắc kinh hoàng cho dân làng. Chúng đặc biệt thích thịt những ngư dân ra khơi, ăn tươi nuốt sống họ, khiến dân chúng không khỏi kinh hoàng khiếp sợ. Khi không còn ai dám ra khơi, lũ quỷ dữ lại mò vào đất liền, tàn sát không kể già trẻ, trai gái, không tha cho bất cứ ai. Khắp nơi chỉ còn lại cảnh hoang tàn, tiêu điều, người dân thì tan tác, bỏ làng mà đi.

Giữa lúc ấy, một chú bé mồ côi, tương truyền con trai của Mẫu Núi, đã xuất hiện như một tia hy vọng cuối cùng. Chú lớn nhanh như thổi, sức mạnh phi thường, chẳng mấy chốc đã trở thành chàng trai khổng lồ, cao lớn khác thường. Dân làng đang phiêu bạt khắp nơi nghe thấy tiếng hú của chàng trai vang vọng trên ngọn núi, liền kéo nhau trở về quê nhà. Họ cùng nhau xây dựng lại xóm làng, sửa sang vườn tược, trồng trọt chăn nuôi, và cùng chàng trai dũng mãnh ra khơi đánh cá. Cuộc sống dần trở nên an yên, no đủ.

HoaCaiMaiToc
người ta thờ thần Độc Cước (nghĩa là thần một chân).

Nhưng lũ quỷ đâu dễ bỏ qua. Chúng bị băm vằm dưới lưỡi đao của chàng trai, biết rằng không thể đấu lại sức mạnh của chàng, nên chờ lúc chàng và thanh niên trai tráng ra khơi, lẻn vào bờ, cướp phá và ăn thịt phụ nữ, trẻ con. Khi chàng về làng để bảo vệ dân, lũ quỷ lại quay ra biển, tiếp tục gieo rắc kinh hoàng. Quyết chí diệt trừ loài quỷ, chàng dùng búa tự xẻ đôi thân mình, một nửa đứng ngự trên đỉnh Sầm Sơn, một nửa cùng dân chài ra khơi. Hai nửa thân thể ấy đã bảo hộ cho cư dân, giúp họ sống an lành, không còn sợ hãi lũ quỷ.

Khi an bình trở lại, người dân lập đền thờ để ghi nhớ công ơn của chàng. Đó chính là đền Độc Cước ở Sầm Sơn – Thanh Hóa, nơi mà lòng dũng cảm và sức mạnh của người anh hùng mãi mãi được tôn vinh. Đền quay hướng ra bãi biển như thần sẽ luôn bảo vệ con dân của mình trong trong những chuyến ra khơi vào lộng của mình. Oai linh của thần Độc Cước đủ sức che chở cho họ.

TỪ CÁ VOI ĐẾN THẦN BIỂN

Từ Đèo Ngang trở vào Nam, ngư dân có tục thờ Cá Ông – tức là những con cá voi mà họ tin chính là thần Nam Hải, được triều đình phong là Nhân ngư hay Đức ngư. Người dân làng chài thường phối thờ Cá Ông cùng với các vị thần khác như Ngũ Hành Nương Nương, Hữu Lý Ngư, Tả Lý Lịch, những vị thần đã giúp đỡ và bảo hộ cho họ có cuộc sống no đủ, an lành.

Theo truyền thống, khi phát hiện cá voi mắc cạn, còn gọi là “ông lụy bờ“, ngư dân xem đó như một sứ mệnh phải chôn cất và để tang như đối với cha mẹ ruột. Xác cá được tắm bằng rượu và liệm trong vải đỏ, sau đó dân làng sẽ lấy giấy đỏ đắp vào miệng cá để thấm nước dãi, phơi khô và đốt thành tro để chữa bệnh suyễn. Cá Ông được mai táng trong đụn cát gần biển, và người phát hiện ra cá sẽ được tôn sùng. Thậm chí, dưới triều nhà Nguyễn, người này còn được miễn sưu dịch trong 3 năm.

Hằng năm, dân làng chọn ngày cá Ông dạt vào bờ để tổ chức lễ cúng giỗ theo nghi thức Nghinh Ông. Người địa phương có câu: “Thấy Ông vào làng như vàng vào tủ“, bởi lẽ theo tín ngưỡng, nếu cá Ông lụy vào làng nào thì làng đó sẽ được phúc lộc, an khang. Sau ba đến bốn năm, dân làng sẽ cải táng, thường vào mùa xuân hoặc hè, rồi đem cốt nhập lăng và tế chung. Với cá lớn, họ chờ đến khi xương rã ra mới cho vào hòm, còn với cá nhỏ thì sẽ cho vào hòm ngay để thờ. 

Khi tế lễ, dân làng cũng không quên cúng cho các vong hồn ngư dân đã mất ngoài biển. Sau khi lễ tế hoàn tất, làng sẽ tổ chức các hoạt động vui chơi như hát “chèo ghe”, đua thuyền thúng, kéo co, và hát tuồng. Điển hình là lễ Cầu Ngư, hay còn gọi là lễ tế Cá Ông, ở làng Mân Thái thuộc Đà Nẵng, tổ chức vào tháng Ba âm lịch. Cứ ba năm lại có đại tế một lần. Ở Bến Tre, lễ này được gọi là lễ Nghinh Ông, diễn ra vào tháng Sáu. Ngoài ra, mỗi khi ra khơi, dân chài cũng thường thắp nhang vái Ông để xin được phù trợ.

Truyền thuyết kể rằng, trong một lần bị bão tố trên biển khi đang trốn chạy khỏi sự truy đuổi của anh em Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã được cá voi cứu giúp và đưa đến nơi an toàn. Khi lên ngôi, Nguyễn Ánh lấy hiệu là Gia Long và đã sắc phong cá voi là Nam Hải Cự tộc Ngọc lân Thượng đẳng thần. Về sau, triều Nguyễn đã phong tặng cá Ông danh hiệu Đại Càn quốc gia Nam Hải.

HoaCaiMaiToc
Cá Ông – tức là những con cá voi mà họ tin chính là thần Nam Hải

Thiên Hậu thánh mẫu – Thần Độc Cước – Cá Ông là bảo trợ cho người dân miền biển, giúp họ có một chỗ dựa tinh thần khi ra khơi. Dưới bàn tay che chở của thần, không một con dân nào phải ra đi, cũng không một người vợ nào phải hy sinh bản thân làm vật tế cho chồng. Dưới bàn tay của thần, người con miền biển. 

Ra khơi thuyền lớn, vững bầu,  
Tôm cá đầy ắp, dâng trào sông khơi.  
Biển xanh rập rờn, sóng dạt,  
Cá tôm bơi lội, trời cao vẫy gọi.

Chia sẻ câu chuyện này
HoaCaiMaiToc
Share