Truyền thuyết kể rằng khi Thiên Hậu sinh ra, suốt cả tháng bà không hề khóc, vì thế mới được đặt tên là Mặc Nương. Từ khi bốn, năm tuổi, bà đã bộc lộ sự thông minh xuất chúng, đến tám tuổi đã theo thầy học và nhanh chóng nắm vững mọi sách vở, giỏi giang trong việc giải nghĩa văn tự. Khi lớn lên, bà quyết định không lấy chồng, dành trọn cuộc đời để làm việc thiện và cứu giúp mọi người. Bà còn nghiên cứu y lý, chữa bệnh và phòng chống dịch bệnh cho dân chúng.
Sinh trưởng tại vùng biển, bà thông thạo thiên văn, khí tượng, và thủy tính, nên thường giúp các thuyền buôn và thuyền đánh cá tránh khỏi hiểm nguy. Vào năm Đinh Hợi (987), Tống Thái Tông, trong năm thứ Tư, niên hiệu Ung Hi, vào một buổi chiều tối ngày mùng chín tháng chín, Thiên Hậu đã lên Mi Sơn. Từ xa vang lên tiếng nhạc tiên đưa đón, và bà đã thoát phàm thai, nhập thánh thai, trở thành một vị thần bất tử.
Trong hành trang đến đất phương Nam, ngoài kinh nghiệm buôn bán, làm ăn, sản xuất thuốc Bắc trị bệnh, người Hoa còn mang theo tín ngưỡng dân gian thờ Bà Thiên Hậu. Ở xứ sở này, bà được thờ nhiều ở những vùng ven biển Nam Trung Bộ. Ở các cửa sông, dọc theo cửa biển, không hiếm để thấy những miếu nhỏ thờ bà.
Vì là một phụ nữ, người ta tin rằng bà còn có khả năng cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh, đặc biệt là nữ giới. Ở các đền thờ bà tại Việt Nam, bà thường được phối thờ với Việt thành Thủy Khẩu Long Mẫu Nương Nương (Nữ thần vùng biển Quảng Đông. Dân chài rất tin tưởng, thờ cúng bà và cầu cứu bà khi gặp nạn ngoài biển) và bàn thờ Kim Hoa Phổ Chủ Huệ Phước phu nhân (Thần chủ quản việc sinh đẻ). Ngoài ra, miếu còn có bàn thờ Thiên địa mẫu, Quan Âm Bồ Tát, Môn Quan, Phước Đức Chánh Thần, Tài Bạch Tinh Quân, Quan Thánh Đế Quân.
Ba miền Nam Trung Bắc, dọc theo bờ biển Việt Nam, đâu đâu cũng có riêng một vị thần biển đặc trưng của mảnh đất đó như một sự quy phục của con người dành cho thiên nhiên.