Sau bao nhiêu nỗ lực đề bạt kẻ sĩ nhằm cứu vãn triều Hán, Đổng Trác rơi vào cảnh bị vây đánh bốn bề. Chiến lược mà Đổng Trác lựa chọn chính là rút về Trường An “thu lấy cái thế của Tần, Hán”. Nhưng sau đó thì sao?
Đổng Trác tiến lên cao, rồi ... rút lui
Trong một năm ở lại Lạc Dương, Đổng Trác dùng chiến lược phòng ngự phản công để đối phó quân Quan Đông. Ông ta chỉ tung quân chống lại cánh quân nào hăng hái muốn tiến sát Lạc Dương, như Vương Khuông, như Tào Tháo, như Tôn Kiên. Dù sao thì Đổng Trác cũng đã mua thời gian cho triều đình Hán Hiến đế có thể đứng vững chân tại Trường An. Khi Lữ Bố hại Hồ Chẩn bại trận trước quân Tôn Kiên, Đổng Trác quyết định tiêu hủy Lạc Dương rồi rút lui. Đó là tháng Tư năm Sơ Bình thứ hai [190].
Đổng Trác hỏa thiêu cung Trường Lạc. Bản in Tam quốc diễn nghĩa của Đại Khôi đường
Chính sách của Đổng Trác sau khi trở lại Trường An tập trung vào việc củng cố địa vị của bản thân. Từ tháng Hai năm đó [190], lúc còn ở Lạc Dương, Đổng Trác đã tự tiến mình lên Thái sư. Triều Hán ở trên Tam công có Thái phó, được gọi là Thượng công. Thời Hán Bình đế, hoàng đế triệu Khổng Quang với tư cách Thái phó, rồi tiến lên Thái sư, cách mười ngày lại ban thưởng thức ăn, còn ban gậy chống, và cho phép đặt ghế ngồi ở tỉnh (trụ sở của quan lại). Hậu Hán thư, Đổng Trác truyện cho biết địa vị của Đổng Trác “ở trên chư hầu vương”. Sách Đỉnh lục (Ghi chép về đỉnh) nói rằng Đổng Trác đã đúc một cái đỉnh để kỷ niệm, đặt tên là “Thái sư đỉnh”.
Sau khi về Trường An, Đổng Trác lại tự tiến mình lên danh xưng Thượng phụ. Thượng phụ là xưng hiệu của Khương Thái Công – người đã giúp Chu Võ vương diệt Trụ. Về chuyện này, Hiến đế kỷ cho biết Đổng Trác chỉ mới có ý định chứ chưa thực hành. Ông ta đem việc này hỏi Sái Ung. Sái Ung can rằng: “Ngày xưa Võ vương trao mệnh cho Thái Công làm thầy, phò tá nhà Chu, để đánh kẻ vô đạo. Vì thế thiên hạ tôn sùng, xưng là Thượng phụ. Nay ông công đức thực là vòi vọi, nên đợi cho Quan Đông yên định hết, xa giá về đông, rồi sau mới bàn việc này”. Đổng Trác bèn ngừng việc đó.
Sái Ung khuyên Đổng Trác. Bản in Tam quốc chí truyện thời Vạn Lịch
Đổng Trác cũng chỉ là người bình thường. Đối với địa vị và của cải, ông ta cũng không bao giờ chê ít. Đổng Trác không tự mình biết nặng nhẹ, không biết cách xây dựng hình ảnh cá nhân. Nhưng điểm đáng nói là Đổng Trác biết nghe lời khuyên can của người khác. Sái Ung sau đó còn khuyên Đổng Trác sửa một lỗi nữa.
Số là, Đổng Trác đi xe thì che lọng xanh, trang sức bằng hoa vàng, hòm xe có vẽ. Theo Tục Hán chí, đó là quy chế xe của hoàng thái tử. Vì vậy, người đương thời gọi xe mà Đổng Trác đi là xe Can ma. Chữ “can ma” có nghĩa là “sắp lấn bức tới gần”. Tháng Sáu năm đó [190], nhân có động đất ở kinh thành, Đổng Trác hỏi Sái Ung về việc đó. Sái Ung lại can Đổng Trác: “Động đất là do âm thịnh, đại thần vượt quy chế mới thành ra như vậy. Ông ngồi xe lọng xanh. Xa gần cho việc đó là không nên”. Đổng Trác nghe theo lời can, đổi thành xe lọng đen, trang sức hoa vàng.
Một hình dung chiếc xe của Đổng Trác trong bản in Tam quốc diễn nghĩa năm 1605
Đổng Trác phân phong cho một loạt con cháu nam nữ trong dòng họ. Con trai phong liệt hầu, con gái phong ấp quân. Có nhiều đứa con trai vẫn còn bồng ẵm, con gái chưa đến tuổi cài trâm cũng được phong. Tuy vậy, người có thực quyền trong triều thì chỉ thấy có Đổng Mân (em trai Đổng Trác) làm Tả tướng quân, Đổng Hoàng (con của anh trai Đổng Trác) làm Thị trung, Trung quân Hiệu úy. Con nuôi là Lữ Bố làm Trung lang tướng. Các tướng thân cận dưới quyền thì đang giữ phòng tuyến phía đông để chống cự quân Quan Đông.
Thời kỳ này, Đổng Trác đã nhận thấy bản thân rơi vào thế cô lập. Vì vậy, ông ta có xu hướng tách mình khỏi triều đình. Tam quốc chí nói “Trác biết mình đối nhân vô lễ, sợ người ta mưu hại mình, nên đi hay nghỉ đều có Lữ Bố bảo vệ”. Đổng Trác cũng không vào triều coi việc, mà sai quan lại ở ba đài phải bẩm việc ở trong phủ của mình. Sau đó, ông ta tiến lên một bực, dựng một cái lũy nhỏ huyện Mi cách thành Trường An hai trăm sáu chục dặm – gọi là Mi Ổ (ổ có nghĩa là cái lũy nhỏ), còn gọi là Vạn Tuế ổ. Tiếng là “ổ” nhưng nó cao ngang thành Trường An, bề dày tương đương chiều cao. Đổng Trác chứa thóc đủ ăn ba năm ở đó, tuyên bố rằng: “Việc thành thì hùng cứ thiên hạ, không thành thì giữ chỗ đó cũng đủ xong tuổi già”. Điều này cho thấy ông ta đã tính tới tình huống xấu nhất là một thất bại quân sự.
Những âm mưu trừ Đổng Trác
Trong thời gian Đổng Trác còn ở Lạc Dương, kẻ sĩ nắm quyền triều đình đã ủ mưu diệt Đổng Trác. Các nhân vật được sử sách ghi chép có Tư đồ Vương Doãn, Tư không Tuân Sảng, Tư lệ Hiệu úy Hoàng Uyển, Vệ úy Trương Ôn, các Nghị lang Trịnh Thái, Hà Ngung. Nhưng đến lúc Tuân Sảng qua đời, nhóm này cũng chưa làm nên trò trống gì. Khi Đổng Trác về Trường An, cũng không thấy có biến chuyển gì lớn.
Giữa lúc đó thì quan Thái sử xem khí trời, tâu rằng sắp có đại thần bị giết chết. Theo Tam quốc chí, Đổng Trác có oán hận với Trương Ôn, đồng thời cũng muốn cái điềm đó không vận vào mình, nên sai người tâu Trương Ôn tư thông với Viên Thuật. Trương Ôn bị lôi ra đánh đến chết bằng bàn vả. Nhóm âm mưu lại mất thêm một người. Sử quan đời sau chép như thể Trương Ôn bị hại. Nhưng Ôn rõ ràng có tham gia nhóm mưu giết Đổng Trác. Chuyện ông này tư thông Viên Thuật là thực hay là cái cớ, thực khó nói chắc.
Đổng Trác giết Trương Ôn. Bản in Tam quốc diễn nghĩa năm 1605
Đổng Trác có lẽ biết về âm mưu hãm hại mình, nhưng không biết được cụ thể. Vì vậy, thời kỳ này cũng là giai đoạn ông ta tung ra nhiều biện pháp bắt bớ và khủng bố tinh thần. Chuyện xử cực hình kẻ đầu hàng ở quận Bắc Địa trước mặt công khanh là một ví dụ. Ở phần trước đã có nói. Có điều Đổng Trác không hề nghi ngờ Vương Doãn. Tháng Mười Hai năm đó [190], khi xét công những người tham gia dời đô, Tư đồ Vương Doãn được phong Ôn hầu, thực ấp năm ngàn hộ. Vương Doãn từ chối. Thượng thư Bộc xạ Sĩ Tôn Thụy can Doãn: “Thiên tử cắt đất ban tước là để báo đáp công huân vậy. Ông với Đổng Thái sư cùng nhận tước vị, chung lãnh ban phong, mà riêng ông cố giữ danh tiết cao cao. Kẻ ngu trộm thấy không yên đó”. Vương Doãn nghe ra, mới nhận hai ngàn hộ. Tam quốc diễn nghĩa tả giai đoạn này gọi Lữ Bố là Ôn hầu, thực ra không phải. Lữ Bố lúc này mới chỉ là Đô đình hầu.
Nhóm âm mưu trừ Đổng Trác khá đông, cũng có không ít người có quyền chức. Trương Ôn làm Vệ úy, Hoàng Uyển là Tư lệ Hiệu úy, cũng không phải là không có quân. Nhưng họ lề mề một cách đáng kinh ngạc. Đến đầu năm Sơ Bình thứ ba [191], họ mới chịu hành động. Lần này là do sự cổ vũ của Tuân Du.
Minh họa Tuân Du trong bản in Tam quốc diễn nghĩa bản Mao Tôn Cương
Tuân Du tự là Công Đạt, người quận Dĩnh Xuyên, là cháu họ của Tuân Úc. Lúc Hà Tiến nắm quyền, trưng triệu danh sĩ trong thiên hạ. Tuân Du được gọi làm Hoàng môn Thị lang. Khi triều đình dời về Trường An, Tuân Du cùng các Nghị lang Trịnh Thái, Hà Ngung, Thị trung Chủng Tập, Việt Kỵ hiệu úy Ngũ Quỳnh bàn mưu diệt Đổng Trác. Tuân Du vạch ra cho họ một “Long Trung đối”. Ông ta nói: “Đổng Trác vô đạo, còn hơn Kiệt, Trụ. Thiên hạ đều oán. Tuy là nắm quân mạnh, thực ra cũng là một thất phu thôi. Nay cứ thẳng thắn đâm chết đi, để tạ trăm họ. Rồi sau chiếm cứ Hào, Hàm, dựa mệnh vua để hiệu lệnh thiên hạ. Đó là hành động của Hoàn, Văn đó”.
Kế hoạch này được tán thành. Ngũ Quỳnh (còn gọi là Ngũ Phu) lãnh vai trò Kinh Kha. Thời đại này có hai Ngũ Quỳnh. Một người bị Đổng Trác giết cùng với Chu Bí lúc sắp dời đô về Trường An. Người thứ hai là người đi ám sát Đổng Trác ở Trường An. Cả hai đều có tên tự là Đức Du, nên khiến hậu thế đôi khi lẫn lộn. Chuyện này cũng không lạ. Đương thời còn có hai ông Lưu Đại đều tự là Công Sơn. La Quán Trung viết Tam quốc diễn nghĩa cũng nhầm là một người.
Ngũ Phu (tức Ngũ Quỳnh) ám sát Đổng Trác. Bản in Tam quốc diễn nghĩa khoảng năm 1664
Theo Hậu Hán thư của Tạ Thừa, Ngũ Quỳnh lận áo giáp, giấu đao ở sau lớp triều phục, rồi vào gặp Đổng Trác. Hai người chạm mặt nhau ở chỗ cửa nhỏ. Ngũ Quỳnh liền rút đao đâm. Đổng Trác khỏe, lùi lại nên tránh được, rồi sai bắt Ngũ Quỳnh. Đổng Trác hỏi: “Khanh muốn làm phản à?”. Ngũ Quỳnh lớn tiếng đáp: “Mày không phải là vua của tao. Tao chẳng phải bề tôi của mày. Có gì mà bảo là phản? Mày loạn nước, soán chúa, tội ác to lớn. Hôm nay là ngày tao chết, nên mới tới giết gian tặc thôi. Hận không được dùng xe xé xác mày ở chợ để tạ thiên hạ”.
Đổng Trác sai giết Ngũ Quỳnh, đồng thời truy bắt hai người Hà Ngung, Tuân Du giam vào ngục. Trịnh Thái phải bỏ trốn sang chỗ Viên Thuật. Hành động này một lần nữa chứng minh mối quan hệ của nhóm âm mưu ở Trường An với nhà họ Viên. Hà Ngung tự sát ở trong ngục. Riêng Tuân Du vẫn hành xử như thường. Ông ta biết rằng những ngày tháng cuối cùng của Đổng Trác đã điểm.
Về cái chết của Đổng Trác, người đời sau đều quy công cho Điêu Thuyền. Sự thực thì thế nào?