Cuộc đối đầu giữa Viên Thiệu và Tào Tháo được sử sách mô tả như cuộc đấu tranh giữa Goliath và David. Viên Thiệu hùng mạnh bị Tào Tháo nhỏ yếu đánh đổ. Thành bại của Viên, Tào được người đương thời và sử gia hậu thế quy về cho nguyên nhân khác biệt trong tư chất cá nhân của hai người. Những khác biệt đó được đúc kết thành các thuyết “tứ thắng”, “thập thắng” và còn hơn thế nữa. Sự thực thì thế nào?
"Tứ thắng" và "thập thắng"
Khi so sánh giữa Tào Tháo và Viên Thiệu, mưu sĩ của Tháo là Tuân Úc từng cho rằng Tào Tháo có bốn điều thắng Viên Thiệu. Cụ thể, Tuân Úc nói:
“Thiệu ngoài khoan dung mà trong nghi kỵ, dùng người nhưng nghi ngờ lòng dạ họ. Công thì sáng suốt thấu hiểu không câu nệ, chỉ cần có tài là dùng đúng chỗ. Đó là thắng về độ. Thiệu chậm chạp thiếu quyết đoán, để lỡ cơ hội. Công thì quyết đoán đại sự, biến hóa không chừng. Đó là thắng về mưu. Thiệu trị quân khoan hoãn, không lập pháp lệnh, sĩ tốt tuy đông, nhưng thực là khó dùng. Công pháp lệnh đã rõ ràng, thưởng phạt được thi hành, sĩ tốt tuy ít, nhưng có thể tranh nhau liều chết. Đó là thắng về võ. Thiệu dựa vào vốn liếng nhiều đời, bề ngoài làm ra vẻ trí tuệ, để thu hút những kẻ có danh. Vì vậy bọn kẻ sĩ kém tài thích nói lắm người theo về. Công dùng sự chí nhân đãi người, đề cao lòng thành, không làm việc đẹp đẽ rỗng tuếch, đối với mình thì cẩn thận tiết kiệm, nhưng với người có công thì chẳng tiếc rẻ gì. Vì vậy kẻ sĩ trung chính có thực lực trong thiên hạ tình nguyện cho dùng. Đó là thắng về đức”.
Tuân Úc bàn mưu với Tào Tháo. Bản in Tam quốc diễn nghĩa năm 1605
Theo nhận định của Tuân Úc, độ, mưu, võ, đức là bốn yếu tố mà Tào Tháo thắng Viên Thiệu. Quan điểm “tứ thắng” này cũng được một mưu sĩ khác của Tào Tháo là Giả Hủ phát biểu. Giả Hủ từng nói: “Công sáng suốt thắng Thiệu, dũng thắng Thiệu, dùng người thắng Thiệu, quyết cơ thắng Thiệu”. Một mưu sĩ khác cũng của Tào Tháo là Quách Gia thậm chí còn phân tích đến mức “Thiệu có thập bại, Công có thập thắng”. “Thập thắng” của Quách Gia bao gồm: thắng về đạo, thắng về nghĩa, thắng về trị, thắng về độ, thắng về mưu, thắng về đức, thắng về nhân, thắng về minh, thắng về văn, thắng về võ.
Học giả Thẩm Gia Bản thời Thanh từng nhận xét: “Lời của ba người này tại sao lại trùng nhau như khớp [binh] phù vậy”?. Thẩm Gia Bản chỉ ra “tứ thắng” của Giả Hủ đại khái giống “tứ thắng” của Tuân Úc; “thập thắng” của Quách Gia lại bao gồm cả “tứ thắng” của Tuân Úc. Câu chữ cũng gần giống. Về điểm này, học giả thời Thanh là Hà Chước cũng từng đặt ra nghi vấn lời Quách Gia “với lời Tuân Văn Nhược có hơi dị đồng, hoặc có khi là phụ họa”. Chúng ta có thể thấy quan điểm Tào Tháo có nhiều điểm thắng Viên Thiệu là tư tưởng cơ bản của các mưu sĩ dưới trướng Tào Tháo. Rốt cuộc kẻ trí giả thường có suy nghĩ giống nhau, hay còn có nguyên nhân gì khác?
Chân dung Thẩm Gia Bản (1840-1913) trong Thanh đại học giả tượng truyện
Nguồn gốc "tứ thắng"
Bối cảnh Tuân Úc nói ra thuyết “tứ thắng” rất đặc biệt. Tam quốc chí của Trần Thọ và Hậu Hán kỷ của Viên Hoành đều có ghi chép. Đó là năm Kiến An thứ hai, sau lúc Tào Tháo bại trận trước Trương Tú. Tào Tháo “ra vào, động tĩnh khác hẳn ngày thường” (theo Tam quốc chí), “thường vung ngón tay, biến sắc mặt” (theo Hậu Hán kỷ). Mọi người đều cho rằng Tào Tháo bực tức vì bại trận. Riêng Tuân Úc cho rằng “Công vốn minh triết, ắt không truy cứu việc cũ, sợ là có điều lo nghĩ khác thôi”. Tuân Úc bèn tới hỏi Tào Tháo. Tào Tháo đưa ra lá thư của Viên Thiệu gửi cho mình, trong đó lời lẽ “kiêu ngạo”. Tào Tháo nói: “Nay muốn đánh kẻ bất nghĩa, nhưng sức không địch nổi, thì phải làm sao?”. Tuân Úc bèn đưa ra lập luận “tứ thắng”, rồi kết luận: “Dùng tứ thắng đó để phụ giúp thiên tử, phù nghĩa chinh phạt, ai dám không theo? Thiệu tuy mạnh nhưng có thể làm được gì?”. Sau khi nghe xong mấy lời ấy, “Thái Tổ mừng”, “Tháo vui lòng”.
Có thể thấy rõ quan điểm “tứ thắng” của Tuân Úc được đưa ra như liều thuốc an thần để giải cơn giận của Tào Tháo. Vào thời điểm đó, Viên mạnh Tào yếu là thực tế hết sức rõ ràng. Tuân Úc chỉ có thể đem những tính chất chung chung ra để ca ngợi, hứa hẹn về chuyển biến tương quan lực lượng để xoa dịu Tào Tháo. Gần như trong cùng một bối cảnh như thế, Quách Gia lấy “tứ thắng” của Tuân Úc, rồi nâng cao quan điểm lên thành “thập thắng”. Khi Tào Tháo gặp khó khăn trước Viên Thiệu trong trận Quan Độ, trong tình thế bế tắc, thuyết “tứ thắng” lại được Giả Hủ lôi ra dùng. Rốt cuộc chúng ta phải hỏi: Những lời bàn luận để làm hài lòng chúa công đó có bao nhiêu phần là sự thật?
Quách Gia bàn mưu cùng Tào Tháo. Bản in Tam quốc diễn nghĩa năm 1605
Chân tướng thắng bại
Những lời của Tuân Úc nói về hơn kém giữa Viên Thiệu và Tào Tháo còn có vẻ chừng mực. Nhưng đến “thập thắng” của Quách Gia thì rõ ràng cố gò ép để đề cao Tào Tháo và chê bai Viên Thiệu. Chẳng hạn, Quách Gia nói: “Thiệu lắm lễ tiết, nhiều nghi thức. Công hành xử tự nhiên. Đó là thắng về đạo”. Cư xử theo lễ thì bị chê trách. Hành động phóng túng thì được ca ngợi. Lại nói, “Thiệu ngoài khoan dung trong nghi kỵ, dùng người nhưng nghi ngờ lòng họ, người được bổ nhiệm chỉ có thân thích con em”; ngược lại Tào Tháo “bên ngoài đơn giản dễ dàng nhưng trong lòng tâm cơ sáng suốt, dùng người không nghi, chỉ dùng đúng tài năng của họ, không cần biết thân hay sơ. Đó là thắng về độ”. Nhìn lại tập đoàn Viên Thiệu mới thấy câu “được bổ nhiệm chỉ có thân thích con em” là hoàn toàn sai sự thật. Phùng Kỷ, Thẩm Phối nắm quân sự, Thư Thụ, Điền Phong, Tuân Kham, Hứa Du làm mưu chủ, Nhan Lương, Văn Xú, Khúc Nghĩa làm tướng quân. Trong số bọn họ người nào họ Viên? Ngược lại hãy xem bên phía Tào Tháo đầy rẫy những Tào Nhân, Tào Hồng, Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên, đều nắm giữ chức vụ nhất định trong quân đội và bộ máy cai trị. Xét về bổ nhiệm con em thân thích thì Viên Thiệu còn thua xa Tào Tháo.
Quách Gia còn nói “chính sự Hán mạt thất bại vì khoan dung. Thiệu lấy khoan dung bổ cứu khoan dung, vì thế không nghiêm chỉnh. Công dùng sự mạnh mẽ để nắn sửa, nên trên dưới đều biết kiềm chế. Đó là thắng về trị”. Tất nhiên, Tào Tháo thiết lập pháp lệnh nghiêm minh là đúng. Viên Thiệu chính sự khoan dung cũng không hẳn đã sai. Lúc Viên Thiệu qua đời, Hiến Đế xuân thu chép: “Thiệu là người chính sự khoan dung. Trăm họ mến đức. Sĩ thứ Hà Bắc chẳng ai không thương xót. Người trên phố chợ gạt lệ, như tang người thân”. Viên Thiệu muốn dựng triều xưng đế, nên phải thu phục lòng dân. Muốn thu phục lòng dân thì không thể dùng pháp lệnh hà khắc như Tào Tháo. Tào Tháo tự phụ chính lệnh nghiêm minh, nhưng lòng dân thường không chọn Tào Tháo. Lúc đi giải vây thành Bạch Mã, Tào Tháo muốn dời dân hai huyện Bạch Mã và Yên. Nhưng dân chúng không đi theo Tháo. Lúc Tào Tháo sắp vào Kinh Châu, dân chúng cũng ùn ùn bỏ chạy theo Lưu Bị. Về sau, Tào Tháo cũng muốn dời dân vùng sông Giang, sông Hoài ra xa bờ sông. Chục vạn dân chúng Giang Hoài liền bỏ chạy sang hàng Ngô. Tất nhiên lòng dân không yêu mến Tào Tháo cũng không ảnh hưởng lắm đến thành bại của bản thân Tào Tháo. Thành bại trong chính trị là kết quả tổng hòa của nhiều yếu tố.
Viên Thiệu và Điền Phong đọc thư do Tôn Càn mang đến. Bản in Samkok năm 1892
Bất kể là quan điểm “tứ thắng” hay “thập thắng”, đó chẳng qua là lấy những điều Tào Tháo hiện có, rồi nói rằng Viên Thiệu hành xử trái ngược. Mục tiêu chủ yếu là dìm kẻ địch đang mạnh là Viên Thiệu, khích lệ tinh thần chủ nhân đang hoang mang của mình. Nói nhẹ nhàng là bơm cho Tào Tháo liều thuốc an thần, nói khó nghe là nịnh nọt ton hót. Vì vậy đối với việc Quách Gia nâng cấp “tứ thắng” lên thành “thập thắng”, chính Tào Tháo cũng phải bật cười và nói: “Như lời khanh nói, Cô có đức gì mà kham nổi”.
Sau khi Viên Thiệu đã thất bại, Tào Tháo đã chiến thắng, “tứ thắng” và “thập thắng” lại trở thành cơ sở để những nhà bình luận đời sau ngợi ca Tào Tháo và nhục mạ Viên Thiệu. Dịch Trung Thiên là một ví dụ. Sau khi phân tích chán chê về “tứ thắng” và “thập thắng”, Dịch Trung Thiên còn đề xuất thêm một cái thắng nữa là “lấy vợ thắng”. Dịch Trung Thiên cho rằng so về đức độ thì Lưu thị – vợ Viên Thiệu – kém xa Biện thị – vợ Tào Tháo. Ông ta kết luận “giữa những người vợ của họ, chẳng phải đã rõ ai nên thắng ai nên thua rồi sao?”. Dịch Trung Thiên hoàn toàn không nhắc đến thực tế rằng Biện thị không phải chính thê của Tào Tháo, mà là tiểu thiếp. Nói đến chính thê thì phải nói đến Đinh phu nhân. Lưu phu nhân ít ra còn đợi Thiệu chết mới dám làm can. Đinh phu nhân thậm chí còn chẳng nể nang gì, xỉ vả Tào Tháo ngay lúc còn sống. Tào Tháo không biết làm sao, đành phải trả về nhà mẹ đẻ, rồi ly hôn. Muốn so “lấy vợ thắng” thì phải so Lưu thị với Đinh thị mới là chuẩn xác. Nhưng so như vậy thì Tào Tháo làm sao “thắng” được?
Minh họa Đinh phu nhân trong bản in Samkok năm 1892 tại Singapore
Bình luận sự đời tựa hồ là một việc hết sức đơn giản. Cứ ai chiếm ưu thế thì ta ca ngợi lên tận mây. Còn ai đang thất thế thì ta dìm họ xuống tận đáy. “Tứ thắng” không đủ thì lên “thập thắng”. “Thập thắng” không đủ thì thêm vào “lấy vợ thắng”. Nếu như “lấy vợ thắng” vẫn chưa đủ thì thêm vào “ăn thắng”, “ngủ thắng”, “đi vệ sinh thắng”. Nhưng kiểu nhìn đời thượng đội hạ đạp như vậy thực sự không giúp chúng ta nhìn đúng bản chất sự việc. Không nhìn đúng bản chất sự việc thì không thể tìm ra bài học đúng đắn. Không tìm ra bài học đúng đắn thì rất khó để thành công. Cách bình luận “tứ thắng”, “thập thắng” chỉ dẫn đến kết luận rất đơn giản. Viên Thiệu là kẻ kém cỏi về nhân cách. Nói như Dịch Trung Thiên, Viên Thiệu là kẻ “ngu xuẩn, cố chấp và bừa bãi”. Nhưng kẻ ngu xuẩn, cố chấp và bừa bãi làm sao từ bàn tay trắng dựng nên cơ nghiệp bốn châu, đánh cho Tào Tháo suýt nữa diệt vong? Rõ ràng đằng sau câu chuyện Viên Thiệu còn có điều phức tạp mà ta chưa nhìn thấu.
Có thể nói, Viên Thiệu là tiêu biểu cho một hình tượng bị sử gia đời sau cố tình bôi nhọ. Người ta có thể không thấu hiểu Đổng Trác. Nhưng chí ít Đổng Trác cũng đã từng làm ra những việc chướng mắt người đời. Viên Thiệu thì được hưởng một chế độ “chăm sóc đặc biệt”. Viên Thiệu không làm gì sai thì ta bịa ra chuyện sai – như chuyện “không phát binh vì con trai bị bệnh” trước trận Quan Độ. Viên Thiệu nghe theo lời mưu sĩ, nhưng vẫn toang thì ta bỏ phần nghe lời đi, chỉ cần viết là “Thiệu không nghe”. Tiêu biểu là việc Thư Thụ khuyên đừng để Nhan Lương đảm nhận trách nhiệm một mình; hoặc như chuyện sau này Hứa Du khuyên phân binh đánh úp huyện Hứa. Viên Thiệu đều đã nghe theo những mưu kế đó, nhưng kết quả chẳng ra gì. Để đối phó Viên Thiệu, sử gia thời cổ đã dùng rất nhiều chiêu trò. Những chiêu trò đó chúng ta sẽ từ từ bóc tách. Câu hỏi đặt ra ngay lúc này là: Vì sao sử gia thời cổ lại căm hận Viên Thiệu đến như vậy?
Minh họa Viên Thiệu trong bản in Samkok năm 1892
Vì sao Viên Thiệu bị "chăm sóc đặc biệt"?
Muốn hiểu tại sao Viên Thiệu được giới sử gia tiến hành “chăm sóc đặc biệt” thì phải đọc lời bình của Trần Thọ trong Tam quốc chí. Trần Thọ soạn tiểu truyện của Viên Thiệu chung với Đổng Trác, Viên Thuật và Lưu Biểu. Trong phần bình luận chung, Trần Thọ đưa ra nhận xét về sự giống nhau giữa Viên Thiệu và Lưu Biểu, đồng thời còn đưa thêm một câu kết riêng cho Viên Thiệu: “Xưa Hạng Vũ làm trái mưu Phạm Tăng, nên vương nghiệp tiêu tan. Thiệu giết Điền Phong, thì còn hơn Vũ xa rồi!”. Câu kết này đã đúc kết hai vấn đề quan trọng về Viên Thiệu. Thứ nhất, Viên Thiệu chính là một phiên bản Hạng Vũ thời Hán mạt. Thứ hai, Viên Thiệu giết Điền Phong nên thất bại là đáng đời.
Trong việc biên soạn lịch sử, điều cần thiết là phải biến nhân vật trở thành biểu tượng, phải khiến cho họ trở thành điển hình của một kiểu người hoặc một kiểu tính cách nhất định. Đối với các nhà viết sử cuối thời Hán mà nói, cần phải viết thế nào để cho sự vươn lên của Ngụy Vũ đế Tào Tháo trở thành hợp lý, hợp đạo. Sử gia thời Ngụy Tấn đã có sẵn khuôn mẫu để sử dụng. Đó chính là lịch sử khai quốc của nhà Hán, chỉ cần phỏng lại để viết. Vì vậy, dưới ngòi bút của họ “Hán có Đổng Trác, như Tần có Triệu Cao”. Tào Tháo thì chính là Hán Cao Tổ. Chính bản thân Tuân Úc cũng không ít lần đem Hán Cao Tổ ra so sánh với Tào Tháo. Mà Hán Cao Tổ thì cần có một người làm Hạng Vũ.
Viên Thiệu chính là Hạng Vũ. Điều này đã được nhiều người nói đến. Tuân Úc, Quách Gia, Gia Cát Lượng, Lỗ Túc đều từng nói như vậy. Viên Thiệu và Hạng Vũ có nhiều chỗ giống nhau. Viên Thiệu nổi lên cùng lúc với Ngụy Vũ đế Tào Tháo, Hạng Vũ nổi lên cùng lúc với Hán Cao Tổ Lưu Bang. Viên, Hạng lúc đầu đều mạnh hơn, nhưng cuối cùng bị Tào, Lưu tiêu diệt. Tào Tháo đã là Lưu Bang thì Viên Thiệu tất nhiên phải là Hạng Vũ. Đặc trưng của Hạng Vũ là không nghe lời mưu sĩ, nên mới thất bại. Thế thì viết về Viên Thiệu cũng phải quán triệt mô hình đó. Nếu thiếu thốn ví dụ về việc Viên Thiệu không nghe lời mưu sĩ thì ta cắt xén câu chuyện, hoặc thậm chí bịa ra.
Chân dung Hạng Vũ do Thượng Quan Chu (1665-1752) thời nhà Thanh vẽ
Người đầu tiên động đao bút để xây dựng hình tượng Viên Thiệu có lẽ không phải là Trần Thọ. Trước đó, sử gia thời Ngụy là Vương Thẩm từng soạn bộ Ngụy thư. Trong đó có tiểu truyện về Viên Thiệu. Có bằng chứng cho thấy Trần Thọ đã tham khảo phần Viên Thiệu truyện trong Ngụy thư. Chẳng hạn, việc Bào Tín xui Viên Thiệu tập kích Đổng Trác chính là lấy từ Ngụy thư của Vương Thẩm. Truyện về Viên Thiệu trong Tam quốc chí và truyện về Viên Thiệu trong Hậu Hán thư của Phạm Diệp đại khái giống nhau. Nhưng có vẻ Phạm Diệp không tham khảo Trần Thọ mà lấy từ một nguồn khác. Có lẽ cũng là Ngụy thư của Vương Thẩm nhà Ngụy.
Viên Thiệu là kẻ địch của nhà Ngụy, nên hình tượng của ông ta bị xây dựng thành kẻ chẳng ra gì. Đó là một lẽ. Viên Thiệu còn dám to gan động đến tính mạng của kẻ sĩ thì rõ là gan cùng mình.
Thời cổ, kẻ sĩ viết sách luôn có tâm thế bảo vệ quyền lợi của tầng lớp kẻ sĩ. Sách vở họ viết chứa đầy những câu chuyện về việc nên tôn trọng kẻ sĩ, nghe lời kẻ sĩ, tin dùng kẻ sĩ. Ngược lại, những ai không tin lời kẻ sĩ, thậm chí sát hại kẻ sĩ sẽ gặp xui xẻo. Chỉ đến mấy chục năm gần đây, không hiểu trí thức Trung Quốc ăn nhằm thứ thuốc gì, lại quay xe dạy kẻ sĩ phải ngậm miệng giả ngu để được sinh tồn, còn chúa công thì lúc nào cũng anh minh thần võ. Viên Thiệu giết Điền Phong chính là đụng chạm đến lợi ích của giới trí thức. Lại nhân tiện Viên Thiệu thất bại trước Tào Tháo, tập đoàn của ông ta không trở thành một triều đại có quyền sinh sát, giới kẻ sĩ cầm bút còn ngán ngại gì mà không trả thù chính trị lên đầu Viên Thiệu. Đó là động lực để người cầm bút ra sức xuyên tạc, nói xấu về Viên Thiệu. Trận chiến Quan Độ là đỉnh cao của sự xuyên tạc đó. Phần đầu của sự xuyên tạc này chúng ta đã biết. Vậy phần sau thì như thế nào?