Nói đến đây, ông Hai giải thích cặn kẽ khiến tôi và Sinh vỡ lẽ ra, bản thân mình quá nông cạn. Rừng U Minh chia làm hai phần, U Minh Thượng là một huyện của tỉnh Kiên Giang, ít hoang sơ hơn, bên trong cũng thường có dân đi ăn ong hoặc làm rẫy. U Minh Hạ là tên một khu rừng tràm thuộc tỉnh Cà Mau. Phần gọi là rừng rộng đến 35.000 héc-ta, gấp mười lần diện tích Quận 7 của Sài Gòn. Thử tưởng tượng nếu bị thả xuống một điểm bất kỳ của Quận 7 có khi còn lạc, huống hồ gì nếu xung quanh là rừng tràm. Tuy nhiên, trong 35.000 héc-ta đó, phần rừng được bảo vệ đặc biệt, tức là Lõi rừng trong con mắt người thường, chỉ chiếm gần 9.000 héc-ta.
Khỏi phải nói cũng biết rừng ở nơi đây dày đặc và hiểm trở đến thế nào. Đối với lục lâm, phần 24.000 héc-ta bao quanh kia có lẽ cũng chỉ như một khu công viên để dạo chơi mà thôi, nên khi họ nhắc đến bìa rừng U Minh, thì có nghĩa là phần diện tích bao quanh của lõi 9.000 héc-ta. Vùng bìa này rộng chừng năm ki-lô-mét, lại chia làm hai phần là mặt bìa và ruột bìa. Ngay cả kiểm lâm cũng ít khi vào phần ruột bìa, chỉ có mùa khô là hay đi tuần tra đề phòng cháy rừng, đoàn này được dẫn bởi Quang Lửa.
Ở phần ruột bìa, ông Hai Tình kể rằng tràm mọc thẳng hàng thẳng lối nhau, giống như chúng mọc trên một nền phế tích cổ xưa nào đó. Nghe đến phế tích, tôi sực nhớ lại Ca Lâu Thành, cảm giác vùng đất Cửu Long vô cùng bình dị nhưng bên dưới lớp đất phù sa lại ẩn chứa rất nhiều câu chuyện ngỡ như chỉ có trong cổ tích. Khả năng có các đô thị cổ khác nằm rải rác khắp nơi là rất cao, dù gì thì đầu công nguyên, nơi này cũng là một hải cảng trung chuyển nổi tiếng thế giới. Một cảm xúc tự hào pha lẫn hứng khởi dâng lên mạnh mẽ, tôi biết chắc chắn chuyến đi này có thể nguy hiểm vất vả, nhưng kết quả thu được sẽ vô cùng mãn nhãn!
Ông Hai tiếp tục kể, khi vượt qua bìa rừng theo cách gọi của lục lâm thì sẽ đến phần Lõi rừng, có diện tích trên dưới 1.000 héc-ta. Vùng này được chia ra làm hai, do hai người canh giữ, mặc dù lọt vào vùng của ai thì kết cục cũng không khác bọn Na Long Hội là mấy. Câu chuyện tại sao lại có hai người sống trong đó, ông Hai Tình không biết được, chỉ nghe nói lại là họ cũng chẳng ưa nhau, tử chiến diễn ra liên miên suốt mấy chục năm chưa dứt. Một người trong số đó là Quang Lửa, tôi đã nghe kể từ tên tay chân Na Long Hội, người còn lại là Bà Sò, một lục lâm đen vô cùng máu lạnh, theo lời kể của Chỉnh Cụt và Năm Tràm.
Nhắc đến tay Sáu Nghĩa tôi lại giật mình. Đợt đó mặc dù bị một búa của anh Hùng làm đầu lìa khỏi xác nhưng anh vẫn nói hắn ta chưa chết, vậy không biết hắn có tìm đến vùng U Minh này để nương nhờ hay không? Nếu có thì cuộc “trùng phùng” giữa hắn và chúng tôi hẳn phải rất đẫm máu. Nhưng máu đó chắc là máu của bọn tôi rồi vì Bà Sò qua lời kể của Chỉnh Cụt và Năm Tràm tuyệt nhiên không phải là người có thể đùa giỡn được.
Thứ làm tôi ngạc nhiên thích thú nhất là cái gọi là “rừng mười vạn chân”. Theo lời kể của Hai Tình, đây là thứ độc nhất vô nhị, có lẽ trong giới lục lâm, đi tìm chẳng có nơi thứ hai. Anh Hùng nói:
– Cái này con có nghe sư phụ nhắc qua một lần, chẳng biết có thật hay không?
Ông Hai khẽ hút một hơi, vẻ mặt ngán ngẩm kể cho chúng tôi nghe về sự kỳ diệu của tự nhiên. Ở vùng ven biển Tây Nam Bộ, đặc biệt ở Cà Mau, ắt hẳn chúng ta hay nghe nhắc đến cây đước. Người dân nơi này không lạ gì với câu hát “từng chang đước đong đưa, nhớ người xưa từng ở nơi này”. Tuy nhiên, có một chuyện khá thú vị mà ít người biết về giống cây đước đó là chúng có khả năng “di chuyển”. Nếu đánh dấu một cây đước bằng những vật mốc cố định, một số cây khi lớn lên, có thể dịch chuyển so với vật mốc một khoảng cách lớn. Điều này là do các rễ phụ của đước khi mọc ra, vươn dài, tựa như cái tay chống, khiến đước có thể dịch chuyển một cách chậm rãi, quá trình này mất đến vài tháng hoặc cả năm.
Rừng U Minh Hạ không có đước, chỉ toàn tràm và tràm,nhưng lại có một loại tràm hết sức đặc biệt, lục lâm gọi là tràm keo cột đình. Loài tràm này chỉ mọc sâu bên trong U Minh Hạ, phần bìa bên ngoài hay có các đoàn khách tham quan thì không thể thấy được chúng. Loài này thân rất to, tên gọi cột đình từ đó mà ra, nhựa sệt như keo, lá dài, nhọn, to như bàn tay trẻ em. Cây non phải mất ít nhất ba mươi năm mới cao lên được hai mươi mét. Từ năm thứ ba mươi mốt, chúng có thể cao đến năm, sáu mươi mét, phần gốc to đến hai người ôm. Cây trưởng thành mỗi năm chỉ ra hoa một lần vào mùa gió chướng. Hạt theo gió bay ra ngoài, gần bìa rừng. Tại đây cây phát triển từ từ, nhưng tại sao không ai thấy? Vì nó có chân.
Ở năm phát triển mười lăm trở lên, có một loại thực vật ăn thịt sống ký sinh vào thân cây tràm. Nhìn những cây tràm bị ký sinh sẽ y hệt cây đước, có phần thân giữa trở xuống là những “rễ phụ” cong cong, đâm rất sâu xuống lớp bùn. Đám rễ phụ này thực ra là thứ thực vật dị thường, “chay mặn đều dùng được”, nhưng bọn chúng thích ăn thịt hơn. Ban ngày đỉnh của loại ký sinh này cắm vào sình, đêm đến thì ngóc dậy săn mồi. Đến một độ tuổi nhất định, khi cây tràm keo cột đình bị ký sinh đủ lâu, rễ chính của tràm bị tiêu biến hoàn toàn, cây chủ chỉ sống được bằng nguồn dưỡng chất mà đám ký sinh đem đến, đổi lại thì tràm keo sẽ tổng hợp loại nhựa như chất keo để cho đám rễ hút vào, nhờ đó mà thêm cứng chắc. Khi đường kính cây tràm đạt đến tầm một mét, đám ký sinh này sẽ bắt đầu quá trình hồi hương, cùng cây tràm di chuyển từ từ trở lại vào Lõi rừng. Tại đây, đến khi cây tràm chết, rễ phụ phân rã ra thành hàng trăm cây con, theo dòng nước trôi ra bìa rừng, lại tìm một cây tràm mới, bắt đầu vòng đời tiếp theo của nó.
Việc băng qua rừng mười vạn chân tại sao qua lời kể của Hai Tình lại trở nên vô cùng khó khăn? Thứ nhất là do không dùng được la bàn. Rừng mười vạn chân không hề có những trận yểm tương tự như Tiêu Đồ Hống mà tôi từng gặp lúc ở Vách Ma Giấu, nó hoàn toàn là thứ gì đó kỳ bí sinh ra một cách tự nhiên làm cho la bàn không thể sử dụng được. Việc định hướng là không khả thi, thậm chí là có đợi đêm xuống để nhìn sao. Ngay cả ban ngày, mặt trời cũng chẳng thể soi qua hết những tán lá dày và kín của đám tràm. Những thứ người bên trong nhìn thấy chỉ là lốm đốm những tia sáng nhỏ yếu ớt lọt qua, vừa đủ soi được không gian độ năm chục mét vuông xung quanh. Ban ngày, lá của loại tràm keo cột đình này tiết ra một chất nhầy, làm ánh sáng chiếu đến thì gặp phản xạ trở ra, cho nên nhìn đâu cũng thấy sáng giống nhau, không thể dựa vào hướng mặt trời mà phân định. Ngày đã vậy thì đêm đến làm sao coi thiên tượng cho được.
Chưa kể tràm khổng lồ mọc san sát nhau, không nhìn xa được, dưới chân là đầm lầy, có thể có cả vũng lầy sát thủ, đi sai thì bỏ mạng như chơi. Nghe đến đây đủ thấy hiểm nguy nơi rừng mười vạn chân trùng trùng giăng lối, ấy là chưa kể đám rễ ký sinh ăn thịt. Quả thực nơi đó là Quỷ Môn Quan chứ chẳng thể đùa, bảo sao khi nhắc đến nơi này, Hai Tình vô cùng nghiêm túc. Tú Linh hỏi, nếu nói như vậy thì làm sao để băng qua được. Hai Tình trầm ngâm:
– Có cách, cách này chỉ có thể làm, chứ không thể nói cho hiểu được.
Điều này càng khiến bọn tôi bồn chồn lo lắng. Anh Hùng hỏi:
– Chuyện không thể dùng la bàn được thì khả năng cao là vùng đó rối loạn về từ trường, nhưng vùng U Minh này không có mỏ sắt, đá từ tính càng không, chuyện tràm phát ra từ trường thì còn khó hiểu hơn nữa. Chú Hai có hiểu tại sao U Minh lại như vậy không?
Hai Tình trầm ngâm:
– Qua đoán là do ngọc rết, nhưng…
Ông Hai suy nghĩ một chút, giống như đang tìm cách diễn giải lại cho bọn tôi hiểu một vấn đề rất phức tạp. Như đã biết, Ngô Công Kim Thân hệ cấp Thái Dương vùng Cửu Long này xuất hiện ở ba nơi, là Thất Sơn tại Vách Ma Giấu thuộc Tri Tôn, hang đá Mo So thuộc Kiên Lương và lõi rừng U Minh Hạ. Truyền thuyết lưu lại đều kể về hai viên ở Thất Sơn và Kiên Lương vốn dĩ không phát tích tự nhiên ở tại chỗ mà được người khác đem đặt ở đó, mục đích đều là trấn yểm. Vậy thì viên thứ ba trong U Minh này, khả năng rất cao cũng được tiền nhân sử dụng cho mục đích liên quan đến chuyện trấn yểm. Tuy nhiên thứ bí ẩn của viên ngọc thứ ba này chính là thông tin. Chẳng ai biết bên trong lõi là cái gì cả. Tất cả đều là một vài lời truyền miệng, hoặc những ghi chép ít ỏi. Dĩ nhiên, để đạt đến trình độ dùng ngọc trấn yểm thì hẳn đó cũng phải là một nền văn hóa, một thành quách, hay một nhóm người tinh hoa. Ngọc rết ở U Minh là một sự bí ẩn.
Tú Linh nói:
– Mấy cái nãy giờ Chú Hai nói, cộng với yếu tố kỳ lạ của rừng mười vạn chân, có khi nào có một khả năng về một cổ mộ nằm bên dưới U Minh hay không?
Hai Tình gật đầu, ông nói ông đồng ý giả thuyết vì thứ nhất: có vẻ địa chất vùng U Minh không bền vững để xây thành lập ấp. Thứ hai là nhìn địa thế tràm mọc thẳng hàng lối phía rừng bên trong, thậm chí rất lâu về trước khi có lần ông lướt ngang đó cũng trông thấy một số phế tích hoặc dấu vết của nhà cửa. Hai Tình dự đoán rằng xa xưa về trước, hẳn có một tộc người đã sống ở U Minh này, còn thông tin chính xác về họ thì ông không biết chính xác đượ. Dĩ nhiên, vẫn có một số lời đồn về một tộc người tên gọi là Cô Chỉ, thích ăn thịt người đang sống bên trong đấy. Sau tất cả mọi chuyện, đều dẫn đến chung một câu hỏi: ai là người đầu tiên tìm ra ngọc rết? Ngọc rết phát tích tại đâu? U Minh Hạ chứa bí mật gì? Hai Tình dĩ nhiên không trả lời thấu đáo được.
Bên cạnh đó, chuyện đại cao thủ như Bà Sò và Quang Lửa cả đời ẩn cư trong rừng cũng có ít nhiều nghi vấn. Anh Hùng nhân tiện hỏi Hai Tình về thâm thù huyết hải giữa hai lão quái kiệt này, Hai Tình lắc đầu thở dài. Chuyện xảy ra trên dưới bảy mươi năm. Ngày ấy, Hai Tình hãy còn rất nhỏ.
Quang Lửa và Bà Sò là cặp thanh mai trúc mã. Sau đó, do gia đình ép gả nên Bà Sò phải lấy người khác. Quang Lửa suy sụp, rồi cũng kết hôn với một người tỷ muội kết nghĩa của Bà Sò. Bẵng đi mấy năm, Bà Sò gia nhập lục lâm đen, quay trở về biết được Quang Lửa đã cưới người tỷ muội thì trở nên điên loạn. Lần ấy, nhân dịp Quang Lửa đang trị thương, bà ta đến giết sạch cả nhà vợ Quang Lửa, kể cả đứa con của họ mới được một tuổi cũng không tha. Quang Lửa như phát điên. Ông ta đến vùng U Minh Hạ này để an táng vợ mình. Thời gian đó Bà Sò cũng thường xuất hiện trong rừng. Lo sợ Bà Sò có mưu đồ xấu, Quang Lửa đã thề sẽ bảo vệ cánh rừng này đến chết. Từ đó, ông chẳng cho ai đi vào lõi nữa, dù là lục lâm thiện lành hay tà ác. Chuyến đi này, nếu đẹp nhất là nên tránh mặt cả hai người bọn họ, dây vào đều chẳng có kết cục tốt đẹp gì.
Sau bốn mươi phút ngồi xe, bọn chúng tôi đến một con đường nhựa dài tít tắp. Hai bên không có đèn đường, cũng chẳng thấy ánh đèn nhà dân nào cả, trời sao hiện rõ mồn một, đẹp vô cùng. Tay tài xế đàn em Kiên Bói Cá quay ra sau nói:
– Xuống đây nè, hướng này đi vô ít gặp kiểm lâm với chó canh.
Bọn tôi xuống xe. Giờ tôi mới để ý kỹ khung cảnh tuy có phần âm u nhưng bản thân nó cũng có một nét đẹp tương ứng. Dưới ánh trăng là một dải màu đen của rừng chạy mãi như vô tận. Chúng tôi cách nó một cái hàng rào kẽm gai cũ kỹ. Tay tài xế chào tạm biệt bọn tôi, không quên để lại số điện thoại, kêu lượt về cứ gọi hắn tới đón. Tuy nhiên, giọng điệu hắn nghe như cứ hàm ý câu “nếu các người quay về được”.