Con lửng thì có lúc đi sở thú tôi đã có thấy qua. Nó bự lắm cũng chỉ cỡ con chó bẹc giê vừa là cùng. Đằng này, với cái đầu trông giống đầu ngựa như thế, bọn lửng mặt ngựa ắt hẳn phải bự xêm xêm một con bò! Trong tự nhiên, lửng là loài rất… “trẻ trâu”, chúng nghênh ngang không sợ con gì khác, kể cả sư tử, hổ, báo. Chúng có lớp da dày, móng vuốt sắc nhọn, rắn độc có cắn thì chúng cũng chỉ cần ngủ một giấc là hết, ấy là loại lửng tôi biết trên tivi. U Minh có lửng, tôi cũng không bất ngờ, nhưng là loài lửng quái quỷ, thân lửng mặt ngựa, không thể không làm tôi có cảm giác sợ sệt.
Anh Hùng quay sang hỏi ông Hai, bây giờ nên xử trí thế nào. Ông Hai bình tĩnh đáp, mắt vẫn không rời khỏi những tán tràm bên trên. Ông nói bọn này khứu giác nhạy bén cực kỳ, dùng tinh dầu bạch đàn có thể làm chúng mất tập trung giây lát. Cứ men theo cây đổ dưới này mà chạy theo ông, tuyệt đối đừng bị chúng khiêu khích mà đánh trả. Khi đó nghe mùi máu, cả bọn nhất loạt xông lên thì chạy đằng trời. Lửng mặt ngựa sống trên các tán cây tràm keo cột đình, hoạt động chủ yếu về đêm. Bọn này ngoài lớp da cứng chắc, móng vuốt sắc nhọn, nanh như hổ ra thì còn có chiếc lưỡi độc nhất vô nhị. Lúc nãy không phải vô duyên vô cớ mà bọn ong thối lui, mặc dù trời sinh chúng đã là những chiến binh cảm tử.
Lửng mặt ngựa là thiên địch tự nhiên của loài ong lưỡi cưa, căn nguyên cũng từ cái lưỡi quái dị đó. Lưỡi của một con lửng mặt ngựa trưởng thành nếu bung ra hết cỡ có thể to bằng cái mền lớn. Bình thường, nhờ vào những sợi cơ đặc biệt, chúng thu gọn lưỡi lại thành một hình nón, chỉ khi săn ong thì chúng mới vươn lưỡi ra hết cỡ. Lưỡi loài lửng mặt ngựa có những bó cơ chạy dọc, lại có những bó cơ nhỏ hơn liên kết, khi săn ong thì như tấm lưới thịt bủa ra, “quăng chài” một phát là ăn được rất nhiều ong. Với quân số của đàn lửng đang bao vây bọn tôi, bầy ong khi nãy chắc trụ được chưa đến mười phút thì đã nằm gọn trong bao tử bọn quái thú kia. Ông Hai còn kể thêm, thấy bọn chúng to xác như vậy, nhưng thân thủ lại hết sức nhanh nhẹn và lại lỳ đòn, tuyệt đối không nên dây dưa vào.
Ông Hai có đôi chân thoăn thoắt lanh lẹ, đi như lướt trên đám thân tràm đổ ngổn ngang tựa như đi trên đất bằng, ngay cả anh Hùng cũng gặp chút khó khăn. Tôi thì may có Sinh đỡ mấy bận, không thì cũng lọt tõm uống làn nước kênh đen ngòm, sặc mùi phèn. Thỉnh thoảng tôi có đưa mắt nhìn xuống mặt nước, chỉ thấy con gì đó to như trăn, lướt đi rất nhanh, ánh mắt sáng lên màu lam chết chóc càng làm tôi phải tập trung hơn vào bước đi của mình.
Di chuyển cũng khá lâu, trầy trật lên xuống chừng hơn nửa giờ, thì cũng đã bỏ bọn lửng ở đằng sau. Chúng tôi liên tục thoa tinh dầu lên vì sợ mùi không đủ nồng. Có vẻ như thoa hơi lố, da tôi nóng như lửa đốt, đau rát vô cùng. Tú Linh thắc mắc:
– Chú Hai, chú là thả diều, không lẽ khu này chú không có con bồ câu nào?
Ông Hai trầm ngâm, nói:
– Bồ câu đâu phải muốn có là có. Ở cái rừng này, không thả diều nào nuôi bồ câu được cả. Hai người giữ rừng mà qua kể đều “xử đẹp” hết rồi. Nếu vượt qua đoạn này được, để xem “bạn” qua có giúp được không!
Cả đoàn đang di chuyển, càng ngày những tiếng uỳnh uỵch bì bõm càng lớn hơn, cây rừng cũng cao hơn nữa, to hơn nữa và đám rễ phụ quái dị kia cũng có kích thước gấp bốn năm lần những cái ở ngoài kia. Đột nhiên, ông Hai nói:
– Tới rồi, rừng mười vạn chân!
Ông Hai quay sang kêu anh Hùng tới đây rồi thì tốt nhất nên đốt lửa lên. Sinh vội làm ba cây đuốc, ông Hai một cây, anh Hùng một cây và nó một cây. Qua ánh lửa bập bùng, khu rừng âm u đã hiện rõ vẻ uy nghiêm sừng sững của nó. Khoảng cách của những cây tràm với nhau tầm mười lăm mét, trông bọn tôi với đám cổ thụ ấy cũng giống như so đốm lửa từ ánh đuốc bọn tôi cầm với một vụ nổ cây xăng, đại khái nó như vậy. Đang bị thu hút bởi lũ quái vật của tự nhiên này thì tôi cảm thấy có ai đó đang nhìn chằm chằm vào mình, vội quay sang bên phải, thấp thoáng đằng xa, có ba bốn khuôn mặt trẻ con không có mắt, làn da trắng tái không chút sức sống. Dĩ nhiên tôi biết đó là miễu biết hát, định kêu mọi người nhìn xem thì những khuôn mặt đó như lùi ra sau, chìm dần vào bóng đêm dày đặc.
Tôi nói cho mọi người biết về điều mình vừa thấy. Quả nhiên anh Hùng, Tú Linh và Sinh không có cảm giác gì cả, chỉ có ông Hai Tình nói:
– Miễu câm đó. Người ta bảo rằng Lõi rừng U Minh tồn tại những linh hồn u uất, cả ngàn năm nay không thoát ra ngoài được. Chúng thoắt ẩn thoắt hiện, nhưng chưa có ghi chép gì về chuyện chạm trán với chúng.
Nghe Hai Tình nói thế, tôi cũng thôi không để ý đến những khuôn mặt kỳ quái kia nữa, giả thuyết về một cổ mộ bên dưới U Minh của Hai Tình, tôi cho rằng cũng có cơ sở. Cả đoàn chầm chậm tiến vào địa phận chính của rừng mười vạn chân. Trước mắt tôi là khung cảnh không biết dùng từ gì để diễn tả, khi bạn sống hai mươi mấy năm trên đời, lần đầu được thấy những cây tràm to như cột trời, chầm chậm nhấc từng nhánh rễ phụ, di chuyển qua lại, mỗi lần như vậy lại vọng lên những tiếng uỳnh uỳnh, kèm theo nước bị động, tạo thành những gợn sóng không hề nhỏ, vang dậy cả một không gian. Cảm giác này giống như đang đứng trong một công trường khổng lồ, có những máy ép cọc đang đóng vào đất liên hồi vậy.
Đứng gần mới thấy, những cái rễ phụ này trông như một cái ống bằng cao su có lớp vỏ xù xì. Phần rễ cắm vào cây tràm lại có những sợi to như cánh tay người lớn, cắm sâu vào thân cây. Tôi đoán chừng những sợi đó chính là rễ phụ của đám rễ phụ. Phần chìm trong nước cứ độ vài phút thì vươn dậy, cao dễ đến chục mét sau đó lao về một hướng, lại tiếp tục cắm cái đỉnh nhọn hoắt vào sâu trong lớp than bùn. Đám rễ này hoạt động như xúc tu bạch tuộc, ăn ý nhịp nhàng, cái vươn ra cái co lại, sau đó thì nhấc bổng cả cây tràm keo cột đình này lên một cách nhẹ nhàng, đưa nó đến một vị trí mới. Cả khu rừng mười vạn chân trông cũng khá giống một rừng bạch tuộc đang di chuyển một cách vô định, tuy chậm nhưng thấy rõ.
Hai Tình bỗng đứng lại, thấy bọn tôi ngây người ra trước cảnh tượng hoành tráng này thì nói:
– Thấy nó chậm vậy nhưng chớ đến gần, đám rễ phụ đó rất nhanh. Qua hay gọi nó là sâu lông.
Sinh thắc mắc:
– Sâu lông? Sao không phải là con gì khác hả chú Hai?
Ông Hai nói bằng giọng nghiêm túc:
– Thấy lớp vỏ xù xì đó không? Nó cũng giống như lớp vỏ cảm xạ. Nếu phát hiện ra có thứ gì đó ăn được, những kẽ hở liền nứt ra, bên trong còn vô số những sợi dây, to và chắc như dây thừng chão, trong giây lát đã trói chặt con mồi rồi xé xác, sau đó rút trở vào trong lớp vỏ, đem theo cả xác thịt của con mồi xấu số!
Bọn tôi cẩn trọng bước đi. Vào đến khu vực này, các cây nhỏ không còn nữa. Nước khá nông gần đến gối, bên dưới là lớp bùn lắng từ đám lá cây, có cả những thứ mềm mềm trơn tuột. Ông Hai nói rằng đó là “xác” của đám rễ phụ bị chết. Đến mùa khô có độ dài khoảng sáu tháng, nước trong cả rừng mất đi, mặt đất khô nứt nẻ, trong này thì đáy bùn hơi mềm. Mùa khô thì đám tràm ngưng di chuyển hoặc di chuyển rất chậm. Bọn tôi dùng xà cạp quấn chặt quần từ gối đổ xuống, đề phòng vắt hoặc đỉa chui vào, sau đó theo chân ông Hai, di chuyển không thể nhanh được. Mỗi khi đạp xuống lớp bùn, chúng lại thoát lên chướng khí tanh hôi nồng nặc, khó chịu vô cùng. Nếu không chứng kiến tận mắt thì đúng là tôi không bao giờ tin có ngày mình phải nhích từng bước dưới những cây tràm khổng lồ. Mặc dù nhìn tổng quan, tràm mọc dày đặc, cộng thêm đám rễ phụ chằng chịt khắp nơi, nhưng vì kích cỡ bọn chúng quá to lớn nên không gian cho bọn tôi di chuyển dưới này cũng không đến nỗi chật hẹp khó khăn.
Chỉ mới đi được một đoạn ngắn, chúng tôi nghe tuốt phía trên cao, những tiếng con gì đó di chuyển qua lại kèm theo tiếng gầm gừ có phần dữ tợn. Cảm thấy có chuyện sắp đến, anh Hùng và Sinh lập tức thủ thế, sẵn sàng đối đầu với bọn quái thú, vốn dĩ quá sức tưởng tượng của người thường nhưng lại đầy rẫy trong rừng U Minh Hạ này. Ông Hai khoát tay ngăn lại, ông nói:
– Không, chậm thôi, đây là bạn cũ…