[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 109: Hoàng Lăng Kinh Dị

[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 109: Hoàng Lăng Kinh Dị

Kỳ trướcCả nhóm tiến vào tòa thành tọa lạc ở lõi rừng, thông qua kiến trúc, Tú Linh và mọi người phần nào đoán được lai lịch của nó.

Khoảng năm 327 trước Công nguyên, Alexander Đại đế đánh Ấn Độ, đại quân đóng ở Bắc Ấn, Nam Ấn lúc này nằm dưới sự quản lý của Vương quốc Nanda vỗn cũng rất hùng mạnh. Trong lúc củng cố binh lực để nam tiến, quân đội Hy Lạp gặp phải biến cố về dịch bệnh nên suy yếu. Chandragupta nhân cơ hội ấy liền đánh đuổi được quân Hy Lạp, “sẵn tiện” xua quân đánh cả vương quốc Nanda. 

Theo sử sách ghi chép lại, Nanda khi đó là vương quốc khá huyền ảo với những bí thuật của đạo Hindu, trong đó có cả những chuyện như khiển xác hoặc trấn yểm. Trong khi đó, người Hy Lạp với văn minh mang tính triết học, khoa học đã cung cấp nhiều tư liệu về kỹ thuật xây dựng, y học. Chandragupta gây dựng nên đế chế Maurya hùng mạnh trải dài trải dài từ Bengal và Assam ở phía đông tới Afghanistan và Balochistan ở phía tây, tới Kashmir và Nepal ở phía bắc và tới Cao nguyên Deccan ở phía nam, kiểm soát được hầu hết Ấn Độ. Điều này khiến ông được người đời xem là ông vua thực thụ đầu tiên cai quản hầu hết tiểu lục địa Ấn Độ. Tuy nhiên việc quản lý một vùng lãnh thổ quá rộng lớn như vậy lại khiến vương triều Maurya non trẻ chịu nhiều binh biến.

Người ta cho rằng, trong thời cuộc như vậy, đích thân Chandragupta bị thứ tà thuật ma mị của một nhóm đạo sĩ Hindu làm mê mẩn. Nhóm này, về cơ bản vẫn dùng các phương pháp bùa chú, khấn vái và tế lễ của Hindu nhưng trong đó ẩn chứa nhiều kiến thức khoa học được du nhập từ nền văn minh Hy – La. Quá trình trên, phần nào đó đã làm hai nền văn hóa tưởng chừng xa cách trở nên hòa chung làm một. Vương triều Maurya tồn tại chẳng bao lâu thì ở biên cương phía đông nổi lên một nhóm bộ lạc, gọi là “Liên minh bộ lạc Nguyệt Chi”, chính là tiền thân Đế quốc Kushan. 

Đế quốc Quý Sương, tức Đế quốc Kushan là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan tới Biển Caspi và từ Afghanistan xuống đến lưu vực sông Hằng. Đế chế này được thành lập từ bộ lạc Quý Sương của dân Nguyệt Chi, đến từ Tân Cương (Trung Quốc) ngày nay. Tên Quý Sương từ tiếng Hoa để chỉ một trong năm bộ lạc người Nguyệt Chi, một liên minh lỏng lẻo của những dân tộc Ấn-Âu dùng các ngôn ngữ Tochari. Họ là người Ấn-Âu sống ở phía cực đông, trên những đồng cỏ khô cằn của lưu vực sông Tháp Lý Mộc ở Tân Cương ngày nay, đến khi dân Hung Nô đuổi họ về phía tây vào khoảng từ năm 176 đến năm 160 trước Công nguyên. Trong lịch sử Trung Quốc, năm bộ lạc Nguyệt Chi được gọi là Hưu Mật, Quý Sương, Song Mỹ, Hật Đốn, và Đô Mật. 

Do nằm tại trục giao thông huyết mạch của Trung Á, họ có quan hệ ngoại giao với Đế chế La Mã, Ba Tư Sassanid và nhà Hán Trung Quốc, và trong vài thế kỷ họ là trung tâm trao đổi giữa Đông Phương và Tây Phương. Dân Quý Sương tới Vương quốc Hy Lạp-Bactria, thuộc địa hạt Đại Hạ (miền bắc Afghanistan và Uzbekistan) vào khoảng năm 135 trước Công nguyên, họ chiếm đất và đẩy những triều đại Hy Lạp ở đấy tái định cư tại lưu vực sông Ấn Độ (ở nước Pakistan ngày nay) thuộc miền tây của Vương quốc Ấn-Hy Lạp (nên nhớ lúc này Hy Lạp có vùng lãnh thổ trải dài, thừa hưởng thời Alexander Đại đế).

 

Trong thế kỷ thứ Nhất trước Công nguyên, người Quý Sương đã trở nên hùng mạnh hơn các bộ lạc Nguyệt Chi khác, và thống nhất họ thành một liên minh chặt chẽ dưới quyền một người tên Kujula Kadphises. Tên Quý Sương đã được chấp nhận ở phương Tây và sửa đổi thành Kushan để chỉ liên minh này, mặc dù người Trung Quốc tiếp tục gọi họ là Nguyệt Chi. Dần dần giành giật quyền kiểm soát của khu vực từ các bộ tộc Scythia, người Quý Sương bành trướng về phía nam. 

Sự cai trị của người Quý Sương liên kết thương mại biển Ấn Độ Dương với thương mại của Con đường tơ lụa thông qua văn minh sông Ấn. Tại thời điểm đỉnh cao của triều đại, người Quý Sương cai trị một vùng lãnh thổ lỏng lẻo mở rộng tới biển Aral ngày nay từ Uzbekistan, Afghanistan, và Pakistan tới miền bắc Ấn Độ. Như vậy rõ ràng người Quý Sương đã lĩnh hội được một nền văn hóa hoàn toàn mới mẻ, thừa hưởng từ những gì mà Chandragupta đã xây dựng. Theo Tú Linh, bằng cách nào đó, nền văn hóa mới ấy đã đặt chân đến vùng Cửu Long – U Minh này. Theo sử sách, khi người Quý Sương lên ngôi, bốn bộ lạc còn lại trong liên minh Nguyệt Chi ban đầu chống đối, sau đều bị thu phục. Chỉ có bộ tộc Hưu Mật, vốn có đời sống thiên về chiến đấu, họ là dân du mục sinh ra và lớn lên trên yên ngựa, đều là những chiến binh dũng mãnh. 

Người Hưu Mật chống đối với người Quý Sương, đến khi đại bộ phận bị quy phục, sử có chép một cuộc đông du của nhóm người Nam Á đến vùng Đông Nam Á, trong đó dẫn đầu là người Hưu Mật. Đến đây thì các sử liệu còn lại ghi chép khá lộn xộn, thậm chí về mặt di truyền học cũng chưa xác nhận chính xác nhóm người này định cư ở đâu, từ trước đến nay vẫn cho rằng họ định cư ở bán đảo Malaysia và Indonesia. Mặc dù người Hưu Mật không nắm quyền cai trị vùng lãnh thổ Ấn Độ, nhưng thời gian từ khi người Hy Lạp đánh chiếm vùng Bắc Ấn cho đến khi họ bị người Quý Sương tận diệt cũng ngót hai trăm năm, khoảng thời gian đó cộng thêm yếu tố địa lý khiến tính giao thoa văn hóa của vùng định cư bộ lạc Hưu Mật là rất cao. 

Sinh thắc mắc, vậy tại sao lại cho rằng nơi này không phải là do người của Ca Lâu Thành xây dựng? Anh Hùng giải thích rằng, nếu phân tích theo yếu tố văn hóa, người Quý Sương với ngôi vị Đế vương cao quý họ chỉ tin dùng văn hóa Hindu hơn là pha trộn nó với Hy – La, so sánh Ca Lâu Thành bọn tôi từng đi với kiến trúc nơi này thấy có sự khác biệt. Nên nhớ thì dù gì ở thời cổ, văn hóa thể hiện qua kiến trúc là đặc trưng nhất, qua đó có thể phân biệt được nhóm người này với nhóm người khác. 

Chuyện sử sách như thế ban đầu tôi cứ nghĩ chẳng hề liên quan gì đến chuyến đi này, cùng lắm là biết thêm một chút về Nam Bộ, nhưng không. Tú Linh tiếp tục phân tích khiến tôi như rơi vào một chân trời mới đầy bất ngờ.

Thứ nhất, người Hưu Mật là một bộ lạc theo bái vật giáo, có thêm hỏa thần sau đó mới du nhập đạo Hindu. Điều này có nghĩa người Hưu Mật có niềm tin mãnh liệt vào sự sống sau khi chết. Nơi bọn tôi sắp bước vào, mười phần thì đến bảy tám phần là một mộ táng hoàng gia của tộc người Hưu Mật, Tú Linh e là sẽ gặp miễu, chuyện đó đến tôi còn thấy là điều dĩ nhiên, không biết là nhiều hay ít mà thôi. 

Thứ hai, tại sao Tú Linh cho rằng sẽ gặp miễu mà lại có vẻ lo sợ như vậy, lý do là vì người Hưu Mật khả năng lớn là những người tạo ra lục lâm. Điều này Tú Linh không chắc lắm, nhưng trong chuyện này, cô và anh Hùng có linh cảm giống nhau. Rõ ràng từ đường vào U Minh đã vô cùng gian nan hiểm trở, nếu là một tộc bình thường như Ca Lâu Thành, e là chẳng ngu dại gì phải vào tận đây lập thành xây ấp.

Thứ ba, nếu nói người Hưu Mật là tổ tiên lục lâm, vậy chẳng phải lục lâm Việt Nam là hậu duệ của những nền văn minh lớn trên quả đất này hay sao? Văn minh Hy – La và Hindu, vốn chẳng phải là chuyện gì đó xuề xòa, hậu duệ của hai tộc trên, ắt hẳn nắm trong tay nhiều huyền cơ của vũ trụ. Chuyện tộc Hưu Mật lặn lội ngàn dặm đến vùng Cửu Long này, theo ý của anh Hùng, cũng không phải là ngẫu nhiên. Có thể người xưa, với kiến thức mang màu huyền bí của mình, đã nhìn ra được những đặc trưng gì đó của vùng đất này để ổn định cuộc sống mới, gọi nôm na có thể là “đất lành chim đậu”. Tôi hỏi vậy còn tộc Cô Chỉ ăn thịt người và người Hưu Mật di cư liệu có liên quan đến nhau? Anh Hùng cho rằng vẫn có khả năng cả hai danh xưng đó đều ám chỉ chung một nhóm người. Dù gì người Hưu Mật đến vùng này cũng ít, họ không đại diện cho những người Hưu Mật còn lại ở Ấn Độ được, có thể họ sẽ tìm một tên gọi mới. Tuy nhiên tất cả vẫn dừng ở mức phỏng đoán.

Bọn chúng tôi lần bước lên từng bậc thang, lắng nghe chăm chú những gì Tú Linh chia sẻ, bất giác cảm thấy vùng đất dưới chân mình quá đỗi uy nghiêm thần thánh. Ngoài ra, theo cách hành xử của các lão niên lục lâm, sắp tới lục lâm sẽ gặp một đại nạn vô cùng lớn. Chuyện ấy với chuyện bọn tôi vào đến nơi này, liệu có liên quan gì đến nhau hay không? Chưa kể nếu người Hưu Mật là “tổ nghiệp” của lục lâm, vậy thử hỏi trong phế tích này, dễ gì không có một vài ông vua nào đó trở thành miễu biết hát. Tôi mơ hồ liên kết chúng, dù là một cách lỏng lẻo nhất, để củng cố niềm tin rằng bản thân mình và đồng đội, đang gánh trên vai một trách nhiệm vô cùng nặng nề mang tên số mệnh. Lúc này tôi không hề có cảm giác lo âu sợ sệt nữa, nhìn những người anh em mới này, tôi tự tin lên rất nhiều, linh cảm Thông sẽ được cứu, bằng mọi giá!

Còn vài bậc thềm nữa là vào chính điện, anh Hùng dừng lại, quay sang nói với tôi: 

– Mày mở Thiên Hổ, lên dẫn đoàn, quan sát phía trước cho anh. Anh và thằng Sinh phụ trách trái phải, Tú Linh ở giữa. Anh linh cảm điện này không phải đơn giản đâu!

Tôi đồng ý với sự sắp xếp của anh Hùng, Sinh đi bên trái sau lưng tôi, Tú Linh ở giữa, anh Hùng lui ra sau một chút phụ trách cảnh giới bên phải và phía sau. Anh Hùng cũng biết với thương thế của Sinh hiện giờ e là chỉ khai được một vài bài Chú không cao cấp lắm, nhưng Thiên Đăng Ẩn Quang để câu giờ thì có vẻ nó làm được. Bọn tôi bước chậm rãi đến bậc cuối cùng. Lên đến đây mới thấy tòa điện này quả thật quy mô không hề nhỏ. Mỗi cây cột to bằng hai người ôm, bốn mét cách nhau, chín hàng cột tất cả, mỗi cây cao đến hai mươi mét. Thời gian tộc Hưu Mật sinh sống ở đây, tôi không chắc là bao lâu, nhưng niên đại kiểu này e là ngang cơ hoặc thậm chí sớm hơn cả Ca Lâu Thành. 

Nhìn những cột đá vài ngàn tuổi tôi cảm thấy bội phục tiền nhân, tòa điện tuy ẩm mốc và nhuốm màu thời gian nhưng vẫn còn rất kiên cố. Chúng tôi đứng ở cửa điện, chưa đi vội vào trong, bỗng đâu một luồng gió âm lạnh ngắt thổi mạnh tới, từ phía trước. Không biết là cuối gian điện này thông đến đâu, âm tào địa phủ chăng? Tôi quay ra sau nhìn mọi người, tiếp thêm dũng khí rồi tất cả cùng bước lên. Tôi gọi Thiên Hổ, ánh mắt soi đến không gian sâu thẳm bên trong tòa điện nguy nga tráng lệ này, cảnh tượng trước mắt làm tôi không thốt nên lời. 

Nơi điện này có lẽ có chung một loại cảm biến dương khí hay thứ gì đó tương tự Ca Lâu Thành, khi tôi vừa bước vào, hàng trăm hàng ngàn cây đèn cùng sáng lên một lúc, tuy nhiên trước khi thấy ánh đèn, chúng tôi đều nghe thấy âm thanh kẽo kẹt, như có rất nhiều bánh răng chuyển động cùng lúc. Tôi nhìn kỹ vào những cái đế đèn thì không khỏi nôn nao muốn ói: mỗi cái đế đèn là một cái đầu lâu, treo cách mặt đất chừng hai mét. Đầu bị cắt lìa, cố định một khung kim loại có cấu tạo đặc biệt, đóng vào cột. Da cổ trông vẫn còn rất mới, lại bóng loáng tựa như có ai vừa chà sáp lên. Quai hàm đầu lâu mở to, phần lưỡi được cố định bằng que sắt, đầu lưỡi có sợi bấc, đèn cháy trên đó, mỡ cháy xèo xèo, kinh dị vô cùng. 

Anh Hùng không khỏi ngán ngẩm trước những chuyện khó hiểu của người xưa, nói: 

– Loại này là trường minh đăng, tương tự thứ ở Ca Lâu Thành mà chúng ta thấy, nhưng ở đây phức tạp hơn nhiều.

Sau đó anh giải thích, cho rằng đèn đốt bên trong đầu lâu, tích tụ thi du thi lạp (nôm na là mỡ người), chảy xuống khoang chứa của khung kim loại bên dưới. Khung kim loại này dĩ nhiên không đơn giản, khi có người vào thì kích hoạt cơ quan, làm đầu lâu há miệng ra, ánh đèn xuất hiện. Nói vậy thì những cái đầu lâu này tuổi đời ít gì cũng hai ngàn năm. Sở dĩ da còn sáng bóng như sáp là vì trước khi được làm đèn, có lẽ người xưa cũng đã ngâm những cái đế đèn kinh dị này vào hồ sáp mỡ người, nhờ vậy đèn cháy lâu hơn. 

Tú Linh lắc đầu thè lưỡi, chê trách người xưa quá man rợ, anh Hùng thì lại có suy nghĩ khác, anh nói: 

– Man rợ hay văn minh phải đánh giá bằng nhận xét của chính cư dân nơi này. Người xưa quan niệm cuộc sống sau khi chết rất thiêng liêng, được phục vụ các vị thần là một vinh dự tuyệt đối lớn lao, có thể họ còn tranh nhau chết để được làm những cái đế đèn ngàn năm nơi điện này ấy chứ!

Anh Hùng nói không phải không có lý, từ ngàn xưa đến nay, niềm tin giúp con người từ một bầy đàn ô hợp đã chinh phục, cải tạo và thay đổi tự nhiên. Chính chúng ta tạo nên thần linh và tôn thờ, tin tưởng vào bậc thánh thần, nên nói con người sẵn sàng chết vì niềm tin, hẳn họ còn rất hạnh phúc với quyết định đó. Vậy nên nói người xưa ác hay hiền, e là không đủ căn cứ. 

Ánh sáng từ trường minh đăng cộng với ánh đuốc bập bùng soi sáng không gian tòa điện. Cảnh tượng bên dưới còn hãi hùng hơn nữa. Bọn tôi đang đứng ở lối đi chính giữa, cuối điện là một bệ đá cao hơn một mét, trên đó là bức tượng thần Vishnu nằm ngủ trên một con rắn thần chín đầu. Hai bên lối đi chính là cả ngàn cái xác không đầu đang quỳ rạp, hai tay cúi lạy về phía tượng thần. Những cái xác khô quắp, nhăn nheo như vỏ cây. Căn cứ theo phục sức còn sót lại thì chắc chắn không phải là hàng nô lệ bị hiến tế. Những người này khả năng cao là quý tộc tự nguyện chết để mong muốn được phụng sự thần Vishnu. 

Tôi quan sát thấy trước phần cổ bị chặt lìa, nằm gọn giữa hai cánh tay đang lạy là một mảnh da. Cái xác nào cũng giống như vậy, trên mảnh da sậm màu nhưng vẫn còn thấy được vết ố do máu. Máu không những bắn lên mảnh da, máu lan ra cả nền, do các xác khô cụt đầu sắp gần nhau quá nên phải nhìn kỹ mới thấy, họ đang quỳ gối trên chính vũng máu của mình, máu khắp nơi trên nền điện. Theo Tú Linh, không chừng họ thực hiện một nghi thức cầu khấn gì đó trong lúc đao phủ chặt đầu từng người một để làm đèn. Tôi không dám tưởng tượng đến nhưng não vẫn cứ nặn ra hình ảnh một buổi nghi lễ đẫm máu, với tư tế, khói nhang, lửa cháy bập bùng, những khuôn mặt căng lên đáng sợ, mắt trợn ngược, tiếng tụng niệm lầm rầm, tiếng đao vung lên xé gió, đầu rơi rụng như sung, lăn tròn trên nền điện rồi bị người ta nhặt lên, kéo banh miệng ra để nhét đèn vào… 

Anh Hùng thì chú ý bức tượng hoành tráng nơi cuối gian điện thờ hơn. Anh nói con rắn thần này không phải Naga như trong thần thoại Khmer mà nó là một thần thú cổ đại trong đạo Hindu, tên là Ananta. Bức tượng kia có lẽ đang nói đến truyền thuyết sáng tạo thế giới của đạo Hindu, trong đó thần Vishnu nằm ngủ trên biển, sữa từ ngài hóa thành con rùa thiêng nâng đỡ vũ trụ. Thần Indra và Vairocana dùng Ananta, khuấy biển sữa tạo nên thế giới. Nghe đậm chất sử thi Ấn Độ. Anh Hùng lý giải, bức tượng nói về khai sinh của vũ trụ, bên dưới là ngàn tín đồ chặt đầu hiến tế. Khả năng cao thì vào ngày mạt vận của nơi này, họ hy vọng thần Vishnu sẽ tái sinh lại họ ở một thế giới cực lạc nào đó. Ngoài ý nghĩa nói về sự khai thiên lập địa, anh Hùng cho rằng người xưa thờ Vishnu còn nhằm một mục đích: cầu xin sự bảo hộ che chở. Suy nghĩ theo hướng nào cũng thấy được những người hiến tế nơi này, lúc chuẩn bị đưa đầu ra cho người ta chặt, ắt hẳn đã cảm thấy vô cùng tuyệt vọng và đau khổ. Có thể họ bị một thế lực tà ác nào đó đe dọa, hoặc cũng có khi do thiên nhiên thay đổi làm họ cho rằng thần linh đang trừng phạt.

Bọn tôi chầm chậm bước lên phía trước, cứ đến cuối gian điện cái đã. Âm phong lúc này vẫn thổi tới liên hồi, nhưng ánh đèn trường minh đăng tuyệt nhiên không hề nhảy múa, còn ánh đuốc thì cứ bập bùng liên tục. Nó càng làm tôi đinh ninh rằng cuối điện thờ này không chừng thông lối xuống mười tám tầng địa ngục, ngưu đầu mã diện đang chờ sẵn. Nói là vậy, chứ nhìn vào thực tế, không cần phải vào đến địa ngục thì tôi cũng đã sợ hãi khi bước đi giữa hàng ngàn cái xác cụt đầu đang quỳ mọp xung quanh. Đường đi đủ rộng thế nhưng bọn tôi không dám đi nhanh, e sợ có bẫy rập cơ quan gì đó bất ngờ dưới chân. Vậy nên phải mất chừng mười phút mới đi được hai phần ba tòa điện. 

Lúc này, những ngọn đuốc kêu lên xèo xèo, như có nước nhiễu vào lửa. Ban đầu bọn tôi cũng chưa để ý lắm, cứ đinh ninh rằng do nước đọng trên trần mà thôi, nhưng chỉ một thoáng sau tất cả đều cảm thấy bất an khi từ trần vọng xuống những âm thanh khúc khích như tiếng cười. Thoạt tiên chúng rất nhỏ, phải chú ý mới nghe được, từ từ lan nhanh ra, khắp nơi trên trần tối đen đều bị tiếng cười quỷ dị đó bao phủ. Tôi lập tức dùng Thiên Hổ, đưa mắt nhìn lên trần nhà thì thất kinh: trần cao chỉ thấy một màu đen đặc, lấp lánh ánh sáng màu xanh lục là những cặp mắt rất to, nhìn chòng chọc xuống cả đám.

Cả nhóm bước vào một tòa điện kỳ bí, Hùng Bonsai đoán rằng tòa thành này thuộc một nền văn minh cổ đến từ Ấn Độ, họ có thể là tổ tiên của giới lục lâm. Điều gì chờ đợi cả nhóm ở tòa điện này? Mời các bạn đón đọc kỳ sau.

Nếu yêu thích các câu chuyện tâm linh và kỳ bí, mời bạn tham gia Xóm Sợ Ma.

Chia sẻ câu chuyện này

Minh họa : Minh Thảo Võ

Thiết kế :
Trần Văn Hậu

Share