[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 122: Ngọc Rết và Quan Tài

[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 122: Ngọc Rết và Quan Tài

Kỳ trướctrước rừng “úp ngược” tráng lệ, ánh vàng của Ngọc Rết xuyên qua từng khe lá như lời mời nguy hiểm. Bà Sò nghiêm nghị dẫn nhóm vào mê cung quá khứ, mỗi bước gần viên ngọc lại càng đưa họ vào cạm bẫy.

Trước mắt chúng tôi là khu rừng úp ngược hết sức kỳ vĩ. Địa hình nơi này nếu mô tả thì khá giống cái nón lá, chỗ bọn tôi đi vào nằm ở triền dốc lưng chừng của nón. Xa phía trước, ở trung tâm là ánh sáng màu vàng nhẹ của ngọc rết, chiếu lên lá tràm làm chúng trông như những con bọ màu đỏ. Những cây tràm to khoảng một người ôm, “cao” đến khoảng mấy chục mét đâm chia chĩa xuống một vùng trũng khổng lồ, bên dưới là những quả đồi thấp, nom hơi hiểm trở khó đi. Có cảm giác lạnh ngắt chạy khắp người tôi, da gà cũng thi nhau nổ lộm cộm, thấy có gì đó không ổn, tôi bèn gọi Thiên Hổ, khi đưa mắt nhìn lên cái “mặt chảo” bên trên, tôi hết hồn phải reo lên đầy hốt hoảng. Anh Hùng quay sang hỏi tôi chuyện gì vậy, tôi chỉ tay hết một vòng xung quanh rồi tả lại cho mọi người nghe, trừ Bà Sò ra thì ai cũng có chút e dè.

Khắp nơi ở triền dốc là những cái quan tài gỗ trông sơ sài mục nát, đan xen giữa chúng là những cái lu khạp bằng gốm, hình dạng cũng không đồng đều nhau, cái lớn cái nhỏ trông khá lộn xộn. Sau lưng bọn tôi về bên trái có một cái lu như thế. Quan tài thì chắc chắn chứa xác người trong đấy rồi, chỉ có cái lu là thứ vẫn khiến bọn tôi tò mò. Dĩ nhiên cũng có khả năng chúng dùng để đựng xác, nhưng mai táng kiểu như vậy thì có hơi kỳ quặc. Thằng Sinh chững lại rồi nó cùng tôi tò mò quá chịu không được, liền đi đến gần một cái lu để cố nhìn vào bên trong. Nắp lu được làm đơn giản, đậy vừa khít. Chất liệu và cách chế tác cũng không có gì hoa mỹ, có vẻ thợ gốm khi làm cũng có phần qua quýt, tuy nhiên trình độ thì không thể xem thường. Trải qua hàng ngàn năm, những cái lu này vẫn còn khá cứng chắc. Sinh nhìn tôi, ra hiệu cho tôi sẵn sàng hỗ trợ nó, đoạn nó tiến đến cái lu gần nhất, cao chừng bảy tám phân, đường kính chừng nửa mét. Bằng một động tác dứt khoát, nó giật mạnh nắp lu, lập tức bên trong phụt lên một lớp khói màu xanh vô cùng ma quái!

Sinh chưa kịp quan sát hết, tôi thấy khói xanh khả nghi liền túm lấy nó kéo mạnh về sau. Nhìn kỹ thì khói này có lẽ là nấm mốc hoặc tử khí bị giam cầm trong lu quá lâu, gặp biến đổi đột ngột thì thoát mạnh ra ngoài. Đợi chốc sau khi làn khói tan đi, tôi và Sinh thận trọng bước đến, ghé mắt nhìn vào trong. Thứ được nhét vừa khít trong đó là một cái xác người co quắp. Cổ bị bẻ ngang do lực nén khi đậy nắp, hai tay bẻ thành vòng tròn quấn quanh cổ, vừa với chu vi của cái lu. Đầu xác chết trông như đang gục lên gối. Tôi không dám đập bể cái lu để xem thứ bên trong còn kỳ dị khủng khiếp đến thế nào nữa. Rõ ràng người này đã bị chôn cất không mấy thoải mái, xương cốt dám chắc chín mười phần là đều bị đập nát bét cả thì mới nhét vừa cái lu kích cỡ đó. Tôi buồn nôn khi nghĩ đến chuyện người Cô Chỉ đã quá đủ kỳ quặc khi nghĩ ra được những thứ này. Sinh trông cũng ngán ngẩm, nó lắc đầu, lấy tay phẩy phẩy trước mặt ngao ngán. Lúc này, anh Hùng cùng Tú Linh kêu hai thằng quay lại, có vẻ họ vừa hỏi Bà Sò thứ bên trong lu là gì, nên không cần phải đến tận chỗ xem.

Anh Hùng cười cười chọc điệu bộ tôi và Sinh rồi anh bảo hai thằng chuẩn bị đuốc, Bà Sò cũng đã biết trong đây có chứa thứ gì nên nói là cứ thoải mái. Lúc nãy chỉ có ánh sáng của ngọc rết nên mới tưởng lầm, những thứ nhô lên mặt đất phía dưới đích thị là đồi núi, nhưng những thứ nhô lên kế bên chúng tôi thì không. Khi Sinh lia đuốc hết một vòng xung quanh thì thấy những cái xác khô đét, tay chân vất vưởng đang lòi ra khỏi những cái miệng lu. Có những cái lu bị bể, bên trong chảy ra một chất dịch màu đen, nếu bể ở gần phần miệng có thể thấy khuôn mặt hốc hác với hốc mắt sâu quắm đang nhìn vào chúng tôi. Quan tài bằng lu như thế này lần đầu tiên tôi mới được nhìn thấy, không khỏi tò mò nên mới hỏi Bà Sò.

Bà Sò vẫn lẳng lặng tiến về phía trước, vừa đi vừa nói. Những cái xác trong lu ở vùng rừng úp ngược này chính là nghi thức mai táng “cao cấp” của người Cô Chỉ, trong lu đều là những người có chức cao vọng trọng, còn chôn ở trụ cây chính giữa là vua cuối cùng của Cô Chỉ, Khâu Tức Đốn. Chẳng biết phong tục này mang ý nghĩa gì nhưng tốt nhất là đừng nên đánh động, miễu mà mang trong mình Tam Hạp chẳng biết là sẽ ghê gớm như thế nào đâu. Chúng tôi nghe xong chỉ biết gật đầu, làm theo lời của Bà Sò. Anh Hùng bảo thằng Sinh tắt đuốc, những khuôn mặt khô đét cũng biến mất, như trốn đi vào bóng tối. 

Đi được một đoạn, trước mặt chúng tôi hiện lên một kiến trúc kỳ lạ. Cái đèo thấp lè tè, chắc chỉ khoảng ba bốn mét bị đào ra hết sức tỉ mỉ, phần đào ra này biến thành một con đường đâm xuyên, hai bên là hai dãy tường đá vôi trắng hếu, thấp thoáng có phần đá bị lõm. Bà Sò vẫn điềm tĩnh bước đi, tôi để ý thấy những phần lõm vào trong trên bức tường đá vôi có điêu khắc một thứ gì đó. Thứ này bao gồm bốn đường chạm nổi to bằng cái cùm tay, trên bốn đường đó có một vật hình tròn, vị trí chính giữa hình tròn do ánh sáng chiếu không tới cho nên chỉ hiện lên một màu đen tuyền. Chẳng lẽ là tượng người? Có khi là vậy thật, bốn đường chạm nổi là tứ chi, vật hình tròn là cái đầu, nếu trên đó còn vẽ ngủ quan trắng bệt nữa thì khá giống với loài ma chạy ở Anh Vũ Sơn. Tôi khẽ rùng mình, cũng không muốn gọi Thiên Hổ ra để tìm hiểu làm gì, nếu có miễu thì Bà Sò đã cảnh báo cả bọn rồi.

Con đường cắt ngang đèo này tối u ám do không nhận được đủ ánh sáng từ Ngọc Rết, thỉnh thoảng dưới đất có khói bốc lên, tiếng chân soàn soạt vọng vào vách đá dội ra âm thanh như có người đang đi theo phía sau lưng. Con đường này khá dài, phải cuốc bộ trong im lặng khoảng năm phút giữa hai hàng tượng không khỏi làm sự lo lắng trong tôi tăng dần. 

Bà Sò dẫn bọn tôi đến bên một vực núi, quang cảnh trước mắt hết sức choáng ngợp, những tảng đá sa thạch khổng lồ đâm lên trên như những búp măng bằng đá. Một dãy núi đá thấp nơi bọn tôi đang đứng uốn mình thành một đường cong, thứ mà gợi lại hình ảnh của Vách Ma Giấu trong trí nhớ tôi. Một vách đá dựng đứng nhẵn nhụi, chạy dài hình bán nguyệt. Còn dãy núi này đường kính rộng hơn rất rất nhiều, mức độ hùng vĩ so với vùng Thất Sơn hay kỳ động ở Kiên Lương tuyệt nhiên chỉ có hơn chứ không hề thua kém. Dùng Thiên Hổ, tôi thấy núi này gần như tròn đều, địa hình dưới rừng U Minh này đúng là đã táng một cú rất mạnh vào chút ít tri thức khoa học còn sót lại trong tôi. Dưới rừng tràm hùng vĩ là một lòng chảo, rừng U Minh mọc trên một cái nắp đậy của chén, là một thứ bùn đất dày chừng trăm mét, được kết dính bằng cả tỉ những rễ cây tràm đại thụ, lan ra như mạch máu của tự nhiên. Phía trên cái nắp là rừng tràm U Minh, dưới nắp là một rừng tràm khác, mọc theo hướng ngược lại. 

Theo tôi ước tính, đường kính của lòng chảo này không thể dưới mười kilomet. Trong lòng chảo là một địa hình phức tạp, với những dòng suối nhỏ, bên dưới có cây thấp trông như dương xỉ, xen giữa là “búp măng” bằng sa thạch cao dễ phải đến năm sáu chục mét. Không gian rộng lớn này cứ ngỡ âm u, nhưng lại được chiếu sáng bởi viên Ngô Công Kim Thân, ánh sáng tuy không chói lòa rực rỡ nhưng lại ấm áp đến lạ thường. Có lẽ vì lý do đó mà những cái cây tràm mới mọc ngược xuống, chúng tưởng dưới này có một ánh mặt trời khác. 

Phía vực núi bên dưới không thấy được đáy, chỉ thấy những bụi cây rậm rì, sương phủ dày đặc, duy chỉ có những chỗ suối chảy qua là thoáng đãng, có thể nhìn thấy làn nước trong vắt, uốn mình như con rồng nằm im lặng ngủ đã trăm vạn năm nay. Phía bên trên đầu chúng tôi, rất cao, là những rễ tràm chồng chất lên nhau, ken đặc như đan rổ, trông vô cùng vững chãi. Xung quanh gốc cây có ít hơi nước, tựa như mây vấn vít, tôi nghĩ vùng này cũng có một hệ thống khí hậu riêng. Tôi từng nghe đến chuyện một nhà máy sản xuất máy bay ở Mỹ, do nhà xưởng quá rộng nên bên trong xưởng có thể có… mưa. Một vùng không khí gần như khép kín, trao đổi với bên ngoài chủ yếu thông qua những cây tràm trên dưới nối rễ nhau này, hoặc qua một vài cái lỗ thông hơi nằm ở xó xỉnh nào đó tôi chưa thấy được.

Đứng giữa chốn bồng lai tiên cảnh, nếu tôi thấy được dưới chân là khủng long bạo chúa đang săn mồi hoặc thằn lằn sấm bay trên đầu, e là cũng cảm thấy chuyện đó là điều hiển nhiên. Mải tập trung thưởng ngoạn cảnh sắc tuyệt vời mà suýt nữa tôi quên hẳn nhiệm vụ của chuyến đi. Anh Hùng hỏi Bà Sò bước tiếp theo là gì, bà ấy nhìn về hướng phát ra nguồn sáng, nằm ở “ngọn” của cây tràm rất to ở hướng một giờ, viên ngọc được đặt ở đó, bên trên quan tài của bà Mãn. Nhiệm vụ của chúng tôi là băng qua cánh rừng ngược, tiếp cận trụ rừng là cái cây to nhất đó, trong quá trình lấy viên ngọc khỏi bệ đỡ, phải nhanh chóng thế chỗ. Anh Hùng hỏi rằng thế bằng gì vào thì Bà Sò trầm ngâm không nói, tôi lưỡng lự một chút, có lẽ nào bà Sò định dùng chính bản thân mình hóa vào đó để kiếm chế khu rừng?

Sinh hỏi rằng, tại sao lại không lấy phắt ra, việc gì phải thế này thế kia vào cho mắc công. Bà Sò lườm nó, chắc cũng giống lời anh Hùng kể khi Chín Danh cốc đầu Thông dạo trước. Bà nói: 

Mấy đứa bây biết tại sao cái rừng này cân bằng được vậy không? Đó là do hai thứ: đám quan tài của các bậc vương giả Cô Chỉ năm xưa, thứ hai là do viên ngọc. Gọi là trong âm là rừng tràm có ngọc là dương, trong ngọc là dương thì bị khắc chế bởi đám quan tài là âm, bọn mày cũng lăn lộn không ít, biết rằng hễ dân săn lan lấy lan không khéo, làm hủy hoại sự cân bằng đó, hậu quả là tự nhiên bị tàn phá. Khu rừng này nếu lấy viên ngọc ra, e là sẽ sụp đổ. Thêm nữa, theo những gì cha ta kể lại, những đế vương Cô Chỉ năm xưa tuyệt nhiên không phải hạng người thường. Khả năng rất cao họ chính là tổ tiên của tất cả lục lâm, nói vậy thì khi lấy viên ngọc càng tránh việc kinh động chúng, đề phòng chúng biến thành miễu biết hát, tao nói vậy bọn mày hiểu rồi chứ?

Tôi nghe mà rợn cả người, bất giác đưa mắt quan sát khắp nơi, đều là quan tài, trên thân cây, trên vách đá, cheo leo có, trước mặt có, trên có dưới càng nhiều hơn, số lượng dễ đến hàng ngàn. Lục lâm như anh Hùng và Sinh hay nói, không sợ một hai con quỷ cực mạnh, mà chỉ sợ cả trăm cả ngàn con thường xông đến cùng lúc. Ba đầu sáu tay như Na Tra e cũng không trụ lâu được. Tôi nhìn những cái quan tài kỳ dị, trông không giống như được làm từ gỗ đá mà là một loại vật liệu gì đó đặc biệt, không cứng và bóng như trét dầu. 

Bà Sò bảo chúng tôi di chuyển theo bà ấy. Thân thủ Bà Sò thuộc hàng thượng thừa, di chuyển nhẹ nhàng uyển chuyển, đi như chạy giữa các tán cây tràm mọc tua tủa khiến tôi đuổi theo mệt bở hơi tai. Bọn tôi dừng lại ở một tảng đá hình con giun dựng đứng, đỉnh nó đủ chỗ để hơn mười người đứng hàng ngang. Anh Hùng nói đích thân anh và Bà Sò sẽ xuống lấy. Để cẩn thận, anh nhờ tôi dùng Thiên Hổ quan sát đằng đó xem có gì bất ổn hay không. Tôi nhìn xuống chỉ thấy quan tài của bà Mãn được làm bằng gỗ, trang trí tinh xảo, không đậy nắp quan, bên trong là xác của bà Mãn trông như đang ngủ ở độ tuổi đôi mươi. Phía trên đỉnh đầu của bà là một bệ ngọc. Bệ này nằm gần ngọc của cây tràm trụ, được làm từ đá, chạm khắc hình một con quái điểu. Nó làm tôi nhớ đến Ca Lâu La nhưng không chắc phải tượng chim thần đó hay không. Nó dang cánh, trên đầu là vương miện, đầu hơi ngả về trước, viên ngọc trông như phần chóp vương miện, sáng long lanh như hòn than hồng rực cháy. Không hiểu sao mà nhìn viên ngọc tôi lại thấy rạo rực đến lạ. Lần này không thể sơ suất bất cẩn như chuyến đi Kiên Lương được. Tôi báo cáo lại những gì quan sát được với anh Hùng, nghe nói đến tượng chim thần trông giống Ca Lâu La, anh có chút bối rối.

Bà Sò thì dường như đã biết trước chuyện đó nên giải thích: 

Tộc Hưu Mật nói riêng và cư dân Ấn Độ thời gian ấy chịu ảnh hưởng từ Hindu rất lớn. Ngoài tôn thờ Tam thần là Vishnu, Shiva và Brahman, thứ họ sùng bái tiếp theo phải kể đến là Ca Lâu La.

Bà tiếp tục giải thích, nó như là con rồng trong văn hóa Đông Á tượng trưng cho vương quyền, chân mệnh thiên tử, thì người Quý Sương, mà ở đây có hậu duệ là người Hưu Mật, chọn Ca Lâu La để thể hiện ý chí về thần thánh. Bức tượng chim thần đỡ ngọc đằng kia chính là tượng Ca Lâu La, nó không phải làm bằng đá thường mà là bằng đá Bồ Tát vân tím, hết sức quý hiếm và cứng chắc, khó chế tác. Viên đá được liên kết với ngọn của cây tràm trụ thông qua một cơ chế truyền nước rất phức tạp. Có thể hiểu nôm na là bức tượng như là một cơ quan trung gian, giúp cây tràm trụ và thế giới bên ngoài được giao tiếp. Ngày nào viên ngọc còn ở đó thì ngày đó khu rừng này còn yên ổn. Nếu lấy ngọc đi thì phải biết cách bố trí một vật khác vào để cân bằng.

Dẫn dắt bởi Bà Sò, nhóm cuối cùng cũng chạm tay vào “Ngọc Rết”  viên ngọc thần thánh cân bằng cả khu rừng. Một sai sót có thể làm đảo lộn tự nhiên và đẩy họ vào cơn bão thảm khốc. Liệu họ có vượt qua cạm bẫy hiểm ác? Đón đọc tại kỳ sau!

Nếu yêu thích các câu chuyện tâm linh và kỳ bí, mời bạn tham gia Xóm Sợ Ma.

Chia sẻ câu chuyện này

Minh họa : Minh Thảo Võ

Thiết kế :
Trần Văn Hậu

Share