[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 132: Biến cố Lục lâm

[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 132: Biến cố Lục lâm

Kỳ trướcchuông cửa đột ngột vang lên. Vy cô gái từ Núi Két  bước vào với ánh mắt sắc lạnh đầy uy lực, dõng dạc hỏi tìm anh Hùng. Mọi bí ẩn giờ mới thực sự bắt đầu.

Con người có xu hướng luôn e sợ và dè chừng với những thứ họ không biết, không hiểu, hoặc không đủ kiến thức, đặc biệt là dính dáng đến âm giới. Bùa ngải là một trong những thứ như vậy. Lịch sử hàng ngàn năm nay đã thêu dệt nên không ít câu chuyện huyền bí, liêu trai, thậm chí khủng khiếp đáng sợ về những thứ này, làm cho nỗi sợ càng thêm nhuốm màu ma quái.

Lại nói lúc nhỏ, nhà tôi là thợ mộc. Ba tôi được ông truyền nghề lại. Trong xóm bọn nhỏ đồn râm ran rằng ông tôi là thầy Lỗ Ban, có đứa lại nói là thầy ngải, ôi cứ loạn cào cào lên hết cả. Nghe kể, lúc tôi còn bé tí, gần nhà tôi có ông nọ, tính tình ban đầu rất tốt đẹp, hòa nhã. Bỗng dưng trở tính, thành người keo kiệt, bủn xỉn, nhà đang ở bình thường cứ đòi đập đi xây lại, lúc xây nhà mới cứ kỳ kèo đôi co với thợ cả suốt từ sáng đến chiều, trong xóm ai cũng lấy làm lạ nhưng chẳng biết sự tình.

Một hôm ông tôi đi ngang nhà đó, thấy thợ đang trát xi măng, mới đánh bạo bước vào, vỗ nhẹ vai của thợ làm người này giật mình. Ông tôi nói: 

– Như vậy không tốt, cậu đừng lún vào con đường nghiệp ác!

Người thợ giật mình, vái lạy ông tôi, nói: 

– Con xin ông, con xin ông, con lỡ dại, đừng báo với chủ nhà, để con gỡ…

Tức thì, người thợ kéo trong góc tường ra ba cây đinh được buộc chéo lại nhau bằng chỉ đỏ, giữa ba cây đinh là một mảnh giấy màu vàng được vo lại. Ba cây đinh nhỏ, đút vào lỗ gạch, xong rồi trát xi măng lại ngay, dễ gì phát hiện được. Đây là cách thợ xây dựng có tà tâm hay sử dụng để trừng phạt gia chủ, làm cho họ sống không yên ổn, gia đình cứ lục đục suốt. Người thợ xây mà ông tôi gặp, có lẽ lần đầu làm chuyện ác nên mới có ý quay đầu hối cải. Nhưng khi ông tôi nhìn thấy ba cây đinh thì liền đanh mặt: 

– Cậu còn giấu tôi, rõ ràng nhà này không phải chỉ có thứ này!

Người thợ tái mặt, quỳ thụp xuống, lạy: 

Con thề là con không có làm cái gì khác nữa đâu ông ơi… Con thề con vừa mới bỏ cây đinh này vô thôi!

Ông tôi giật mình, bèn đứng ngoài đường nhìn vào căn nhà lại lần nữa, thấy ám khí rất dày, tỏa ra không ngớt, làm cỏ cây xung quanh cũng không tươi tốt nổi, chứng tỏ âm khí đã ở đây lâu ngày, ắt không phải là do cây đinh mới bỏ vào. Ông tôi nghĩ ngợi giây lát. Sau đó bảo thợ hãy về hết, ông thì đi xung quanh, kiếm một mảnh vải đỏ và một cục than. Ông tìm được một cái áo thun con nít cũ và một mẩu gỗ cháy. Đám thợ tuy vâng dạ, bảo là sẽ về, nhưng cũng tò mò nên đứng ở gần đó, sau một bụi dâm bụt, ngóng xem ông tôi làm gì. Thấy đám thợ tụm năm tụm bảy, người dân hiếu kỳ xung quanh cũng đã thấp thỏm sau hàng rào, chưa dám ra đường xem hẳn.

Lúc này trong nhà chỉ có người chồng, phần người vợ thì đang đi chợ, đứa con thì đi học. Ông tôi dùng cục than, viết gì đó lên cái vải đỏ cũ nát, lấy nhựa cây bình bát quẹt những đường rất dứt khoát, sau đó tiến vào nhà. Một số hàng xóm khi ấy thấy ông tôi có vẻ kỳ quặc, nhưng vẫn nể người lớn tuổi, nên đứng bên nhà hỏi vọng sang: 

– Có chuyện gì hả ông Sáu?

Ông tôi chỉ đưa tay lên, ra dấu im lặng, nói: 

– Mấy anh đừng cho ai vô nhà cho đến khi tôi đi ra, mất mạng người như chơi đó!

Ông tôi bên ngoài đạo mạo nghiêm trang, lời nói thâm trầm sâu sắc, dân trong xóm phục cũng một phần vì lý do đó, nên dù ông tôi hành xử lạ lùng, họ cũng không dám cản ra mặt. Một người kể lại, thấy ông tôi đi vào nhà, lát sau thì nghe tiếng người chủ nhà hét lên một tiếng rất dài, dài đến kinh dị, cùng với đó là tiếng đồ vật rơi vỡ. Khi ông tôi đi ra thì cầm theo tấm vải đỏ cũ nát lúc nãy, quấn chặt vật hình như cái chum, đem về nhà. Khi ba tôi hỏi, ông mới giải thích. Lần ấy ông vô tình đi ngang căn nhà đang xây, thấy ám khí dày đặc, tưởng rằng do người thợ yếm thắng mới đến nói phải quấy, ai dè người thợ chỉ vừa mới yểm, vậy thì thứ gì làm căn nhà ra như vậy? Ông đoán người chồng vướng phải thứ âm gì đó, khi biết người chủ còn đang ở trong nhà, ông mới đi chuẩn bị một mảnh vải đỏ, là cái áo cũ, viết lên một số câu chú để biến tấm vải rách nát thành một thứ có thể đựng được điều tà ác.

Quả nhiên khi ông tiếp cận chủ nhà, mới phát hiện ông ta vướng phải một thứ ngải, gọi là ngải mắt heo. Ngải này gốc từ vùng biên giới Lào – Cam, theo dân buôn ma túy mà về Việt Nam. Ngải này không dùng con nít như nhiều ngải khác, mà dùng con khỉ con, lấy mắt heo đắp vào hốc mắt khỉ, thay lưỡi khỉ bằng lưỡi gà, đặt trong cái chum, bên ngoài chum có khắc hình kim tiền đẹp đẽ và mấy chữ như ý cát tường. Bên trong thì đặt xác con khỉ, quấn dây chỉ đỏ quanh cổ và trói tay chân nó lại, ngâm với rượu bắp. Ngải này độc địa ở chỗ, người bị ám sẽ thay đổi tâm tính, làm cho bị xã hội ghét bỏ, xa lánh, từ đó chết rất thảm! 

Người chủ nhà không biết mua cái chum đó ở đâu, đem về để làm chậu kiểng, trồng cây nguyệt quới. Nguyệt quới hút nước thấm bên trong cái chum, ra hoa, chủ nhà thích hoa này nên thường ngửi, vô tình thành ra như vậy. Ông tôi điểm hỏa lại cho chủ nhà, ông ta nôn một hồi ra toàn thứ đen đúa bầy nhầy, hôi như lòng heo, ông tôi hứng lại hết bằng cái chum, sau đó gói chum vào áo vải đỏ, đem về, nhóm đống lửa lớn, cho gạo, muối vào đó trước rồi đốt luôn cái chum, nghe đâu lửa cháy đến chiều mới hết, hôi vô cùng.

Nếu nói về yếm thắng thì rất nhiều phương cách, vậy, yếm thắng thực ra là gì? Yếm thắng thuật chính là dùng bùa chú, pháp thuật hoặc cầu nguyện để trù ếm người, vật mà mình ghét, nhẹ thì khiến họ bị khùng điên, nặng thì mất mạng, cụ thể ra thì cách đó là sai một đám âm binh, dựa vào vật dùng để yếm thắng (nôm na như cây đinh mà ông tôi cản người thợ nhét vào), tạo ra một cam kết giữa hai bên, thầy yếm thắng lệnh cho âm binh quấy phá người bị ếm.

Yếm thắng như đã nói ở trên, có rất nhiều phương cách. Người thường đã có dùng, lục lâm không thể nào không có. Nhưng đó chỉ là suy đoán của tôi, chẳng thể biết chính xác được cách trù ếm của giới lục lâm vô cùng im lặng này.

Ông tôi rõ ràng có mối liên hệ với lục lâm, đến nỗi sở hữu được Thiên Hổ Phù thì vai vế không thể nào tầm thường được, nhưng hỏi lục lâm thì không ai biết. Lần đi U Minh về, tôi cũng ướm thử, hỏi chuyện ba mẹ tôi, nhưng chẳng ai nhớ được gì nhiều, ngoài một số chuyện tương tự như khi ông trừ ngải mắt heo đó vậy thôi. Ba tôi nói đã lâu quá, chuyện nhớ chuyện không, còn thân thế trước đó của ông tôi làm gì, ở đâu, ở với ai thì từ sau khi đi ghe gạo, không ai biết cả.

Nói về thân thế của ông, chột dạ tôi lại nghĩ về bản thân mình. Tôi là một kẻ vô danh tiểu tốt. Bạn bè tôi gọi tôi là “nhóc”, “thanh niên Thiên Hổ”, “ông”, “mày” đủ cả, tôi chẳng phiền khi họ không đoái hoài đến tên thật của mình. Hình như có một quy định nào đó trong giới lục lâm, nói thực ra tôi cũng không buồn mà hỏi, họ làm gì đều có lý do của mình. Tôi gia nhập vào lục lâm đến thời điểm này cũng chỉ mới bốn tháng, tính từ lúc anh Hùng rủ tôi đi Kiên Lương mà thôi. Ấy vậy mà tôi không biết mình thuộc giới nào trong số bọn họ. Hàng rong và hàng thịt thì chắc cú là không phải rồi, đào giếng và thả diều thì càng không. Vậy rốt cuộc là săn lan hay đập miễu?

Kỳ thực, săn lan và đập miễu tuy hai mà một, tuy một nhưng lại hai, khó phân biệt là vì từ lâu, hai giới này thường song hành với nhau. Săn lan là đi tìm kỳ trân dị bảo trong rừng sâu núi thẳm, chủ yếu là những đồ hiếm của tự nhiên, như nanh trăn, sừng tê trắng, móng tê tê bảy màu, mắt tích lĩnh, đều phải băng rừng vượt núi, trèo vách lội sông, thể lực và võ thuật là chủ yếu, thân thủ kinh hồn, sức khỏe bền bỉ. Đập miễu thì cũng đến nơi rừng thiêng nước độc, trừ ma diệt quỷ, sức khỏe có thể không cần mạnh như hổ báo, nhưng cũng phải chịu được lam sơn chướng khí, quỷ hồn ma lực, chứ không thì đi mười về chỉ một. Ngày xưa, lục lâm còn là những bậc đại cao thủ, thì hai giới này tách riêng, về sau, họ thường đi chung, vì nếu săn lan phải vào rừng sâu núi hiểm, thể nào chẳng có ma độc quỷ dữ, có đập miễu đi theo thì tiện cả đôi đường. Đập miễu đi trừ ma những nơi hầm mộ, phải băng qua hiểm nguy trùng trùng, không có săn lan yểm trợ thì khó lòng tiến bước. Vậy nên từ lâu, hai giới này trở thành hai cái tên nhưng một nhóm người, cho nên tôi tự thỏa mãn rằng, với năng lực của Thiên Hổ, gọi tôi là săn lan hay đập miễu đều được.

Giống như lần đi U Minh, lúc ấy nếu không có sự tương trợ qua lại và sự giúp đỡ của cao nhân, bọn tôi làm sao tiến vào Hoàng Lăng Cô Chỉ được. Hiểm nguy bên ngoài, chưa kể miễu lành miễu dữ đông vô kể, suýt chết đến mấy lần, vậy nên mới nói ăn được chén cơm lục lâm cũng như ngồi dưới cây đao treo bằng chỉ mỏng!

Sau chuyến đi U Minh trở về, như đã biết, nhóm chúng tôi tạm thời chia ra, mỗi người làm một việc riêng. Tôi và Sinh do ở gần nhau nên thường đi đập miễu lẻ tẻ, tức là diệt mấy con ma vớ vẩn hay bắt vong ở những nơi thôn cùng xóm vắng. Kỳ thực làm cho đỡ nhớ nghề, chứ để gọi là “đã tay” thì chưa tới.

Sau chuyến đấy nghe đâu anh Hùng vẫn còn liên hệ với Kiên Bói Cá cùng với Bà Sò. Hai Tình vẫn đang dưỡng thương. Bởi vậy mới nói, lần đó không có Không Quy đỡ dùm mấy đòn của Quang Lửa, tám mươi xác bọn tôi cũng chẳng làm lại ổng. Không Quy lần ấy hư hoại ít nhiều, không tịnh dưỡng hẳn thì dễ bị vỡ, tôi chẳng dám nghĩ đến cảnh Không Quy vỡ tan ra.

Chát!”.  Anh Thông táng đầu tôi một cái rõ đau:

– Mày suy nghĩ cái mẹ gì mà ngồi như khúc cây vậy?

Tôi nhìn quanh, cả đám người gồm có bốn mạng đang ngồi quây quần trong căn phòng của anh Hùng, Tú Linh vừa lau nước mắt vừa sụt sùi, anh Thông với thằng Sinh ngồi hai bên trái phải, và cô bé tên Vy mới đến lúc nãy. Giờ mới để ý, tôi mải mê suy nghĩ vô tình nhìn chằm chằm vào Vy khiến em ấy nhăn mặt khó chịu. Mà cuối cùng thì mục đích của em ấy đến đây là gì, chỉ nghe em ấy bảo lúc đứng ngoài cửa là muốn tìm anh Hùng, vẻ mặt đầy nghiêm trọng. Vy đang ngồi hết sức khép nép bên cạnh Tú Linh, từ khi bước vào vẫn chưa chịu lên tiếng.

Anh Thông nốc ngụm bia rồi lên tiếng, dù gì anh ấy cũng lớn nhất trong đám: 

– Lần trước anh với em chưa kịp nói chuyện gì nhiều, nhưng anh đoán em cũng thuộc lục lâm. Rồi sao, gì mà đòi kiếm anh Hùng rồi cái im re vậy má?

Vy khỉnh mũi, cửa miệng méo mó suy nghĩ gì đó rất lâu, nói:

– Anh Hùng hơn mười ngày trước có lên kiếm em trên Núi Két, tại em có liên lạc với ảnh, nói là nếu sau mười ngày mà anh không quay lại Núi Két thì lên Sài Gòn kiếm ảnh.

Tôi hốt hoảng: 

– Cái gì, vậy lý do gì mà anh Hùng vẫn chưa về? Ổng chui vô nguy hiểm gì rồi bị hãm hại hay gì rồi em?

Vy lắc đầu quầy quậy: 

– Em nghĩ cũng không đến nỗi, nhưng em không biết chắc.

Tú Linh nheo mắt hỏi: 

– Em liên hệ anh Hùng, rốt cuộc là vì chuyện gì?

Vy ngơ ngác nhìn cả bọn. Không gian lúc này im lặng đột ngột, bỗng tôi nghe được âm thanh “ọt ọt ọt…”, là tiếng bụng của Vy đang réo. Ai cũng ráng nhịn cười. Vy xoa xoa bụng, nói: 

– Chiều giờ em ngồi xe, đói quá. Nhà mình có gì ăn hông, cho em ké một miếng với!

Tất cả nhìn thằng Sinh, làm nó đang hớp rượu mà phải chưng hửng:

– Sao lại nhìn em?

Anh Thông nói: 

– Thì mày nhỏ nhất trong đám, có việc thì ưu tiên mày làm trước hết. Trước là để tỏ lòng cung kính với tổ nghề, sau là để tình nghĩa anh em thêm bền chặt, chứ anh không có ép mày đâu à nghen! Có anh Hùng ở đây thì ảnh cũng phải gật đầu mà đồng ý với sự cơ cấu nhân sự này thôi!

Thằng Sinh “Xùy!” một tiếng rõ to, rồi cũng đi ra bếp, nấu một gói mì cho Vy. Tô mì thơm phức, tôi hít một hơi mà nhớ thời sinh viên. Vy cầm đũa lên, bỗng nhìn vào tô mì, em lấy đũa khuấy mấy vòng rồi ngước lên, hỏi: 

– Ủa anh chị có rau muôi không, cho em một ít ăn với mì đi, em thích ăn mì với rau muôi lắm!

Anh Thông trố mắt: 

– Rau muôi là rau gì em gái? Rau muống?

– Không, là rau muôi, cái lá dài dài, mỏng, màu xanh đậm á!

Tú Linh đang đứng ngồi không yên, gặp Vy đòi hỏi, gắt: 

– Em gái tả vậy ông nội chế còn không biết. Ká nào mà chẳng dài, mỏng, và xanh hả?

Tôi, anh Thông và thằng Sinh cũng ngơ ngác nhìn em ấy. Vy thấy cả đám không hề biết “rau muôi” là gì thì làm sao mà đòi hỏi được, nên em cúi đầu xuống ăn, nói giọng nhỏ nhẹ: 

– Dạ, không có thì thôi…

Vy ăn được vài đũa, Tú Linh giục: 

– Nhanh nhanh em gái ơi, nhà bao việc mà em cứ vầy, làm sao không lên máu đây?

Vy vừa nhai, vừa vuốt lại tóc, nói: 

– Những biến chuyển liên tục trong giới lục lâm. Cả Na Long Hội và Tứ Trấn đã ra tay. Hôm anh Hùng lên nước trong núi chảy rất chậm, mây trên trời lại bay nhanh. Nước trong núi chảy chậm vì thế đất bị thay đổi, mây trên trời bay nhanh vì những nguồn năng lượng phát ra từ Ấn và Chú, mật độ rất dày đặc mới có thể ảnh hưởng lớn như vậy. Hai điều trên, mặc dù rất khó nhận biết, hoặc chẳng ai rảnh để nhận biết, nhưng trong lục lâm, thế núi cảnh trời hết sức tất yếu. Thêm vào đó, anh Hùng có liên hệ với anh Hạo về nội bộ của Tứ Trấn. Hai nguồn cơ sở như vậy đủ để đưa đến kết luận rằng sắp có biến cố lớn xảy đến.

Bốn người bọn tôi nhìn nhau, trong đầu đều có chung một suy nghĩ:

– Con bé này nói gì vậy? Một loại lục ngữ mới hay sao?

Thằng Sinh lên tiếng: 

– Bình tĩnh em gái, ăn chậm chậm, nói chậm chậm lại cho hiểu với!

Vy nuốt hết đống mì đang nhai: 

Chung quy lại, lục lâm sắp có biến lớn, Na Long Hội hoạt động trở lại, lần này có sự hợp tác của Tứ Trấn. Anh Hùng và anh Hạo vì thế đều hết sức lo lắng!

Anh Thông thắc mắc: 

– Sau đợt tổ vật cho hóa thành Xà Niêng, dường như tui cũng thành người tối cổ thì phải! Cho hỏi cái là “anh Hạo” là ai?

Tú Linh và Sinh lắc đầu, tôi cũng không biết, nhưng nếu Vy nhắc tên mà không giới thiệu thì phải có lý do. “Anh Hạo, anh Hạo”, tôi cứ lẩm nhẩm trong đầu cái tên ấy, chẳng lẽ… Tôi thốt lên: 

– Chẳng lẽ là Võ Gia, Võ Vân Hạo? Người cứu anh em mình hồi ở Ca Lâu Thành!

Trong một buổi họp, Vy tiết lộ dấu hiệu “nguy cơ lớn” khi Na Long Hội và Tứ Trấn đồng loạt hoạt động trở lại, đồng thời nhắc đến “anh Hạo” bí ẩn. Cả nhóm bàng hoàng nhận ra sắp có biến cố, đặt bước chân vào mối hiểm nguy chưa từng có. Hãy đón đọc tại kỳ sau!

Nếu yêu thích các câu chuyện tâm linh và kỳ bí, mời bạn tham gia Xóm Sợ Ma.

Chia sẻ câu chuyện này

Minh họa : Minh Thảo Võ

Thiết kế :
Trần Văn Hậu

Share