Chia tay Cá Ba Gô kèm theo lời hứa đánh dằn mặt đám Long Đế, bọn tôi qua phà từ cồn Lục Sĩ Thành, vào Trà Ôn, đi ngược về đường tỉnh 907 để hướng về Trà Vinh, nơi có địa danh Chợ Xẻng mà Vy vừa nói. Thú thực lòng tôi hồi hộp ý vô cùng. Thuở bình sinh đến giờ, chuyện bùa ngải thư ếm, tôi nghe vô số, đến tận bây giờ mới trải nghiệm, tận mục sở thị được cách người trong nghề hoạt động ra sao, giờ lại còn được đi xem “chợ” của họ, dĩ nhiên không thể kìm được sự phấn khích!
Như đã biết, thân thế thực sự của ông tôi khiến tôi vô cùng tò mò, chỉ muốn biết vai vế ông trong lục lâm là gì, để sau này đi ra đường gặp đồng đạo còn nở mày nở mặt, ngặt nỗi hỏi hoài không ai biết. Nay đi chung với Vy, tôi hy vọng rằng sẽ có người biết đến ông tôi, để tôi hỏi một vài câu chuyện chứ cũng không gì khác. Vy nói tôi mới biết một số điều thú vị về lục lâm. Ví dụ như nơi để lục lâm mua những thứ đồ của họ. Hàng thịt là thợ chế tác theo yêu cầu riêng biệt, những món vặt vãnh hay nguyên liệu, từng nhánh lục lâm vẫn phải đi chợ tự mua mà thôi.
Nói về chợ riêng, trong lục lâm, chỉ có thả diều là không có chợ. Cũng phải thôi, làm gì có nơi nào để họ đem bán những con cá sấu to như cái xuồng, hay con rắn dài hơn chục mét, đầu to như cái bàn, đó lại là bồ câu của họ. Thả diều ở từng khu vực thì thu phục những con vật ở tại địa điểm đó để làm bồ câu, cũng có thể đem nơi khác đến. Vy nói, không phải bồ câu nào cũng to vật vã, nếu có dịp gặp lại Hạo, anh ta sẽ dùng kiến làm bồ câu cho bọn tôi cũng được!
Đập miễu và săn lan cũng có nơi họp chợ, do đặc thù hai giới này công việc thường đi đôi với nhau, nên chợ cũng họp chung. Chợ này luôn có quy tắc, nằm trong khu chợ của người Hoa tại địa phương đó, đi từ cổng chính chợ vào đến gần trung tâm thì rẽ phải, sau đó rẽ trái. Tiệm thường được ngụy trang, bên trong là tiệm thuốc Bắc, có bày một số bàn ăn cơm nhếch nhác, trước cửa thì treo bán liềm, lư hương, nhang theo thứ tự từ trái qua phải từ ngoài nhìn vào, mặt trong của cửa ra vào luôn có một cái gương, ngụ ý là: “Có bán cái mạng mới có cơm ăn, có cơm ăn rồi mới có cuộc sống khỏe mạnh”, khi quay ra thì hàm ý ngược lại: “Đang khỏe mạnh, nên nhớ vì chén cơm mà phải bán cái mạng, hẹn gặp lại đồng đạo” như là lời chúc thuận buồm xuôi gió. Tại sao đồ của săn lan và đập miễu thường bán chung trong chợ của người Hoa? Vì thứ nhất, những đồ dùng của hai giới này nhìn vào cũng khá giống với người thường: dao, rựa, dây, vàng mã, nhang, đèn cầy, vân vân. Thứ hai là Chợ người Hoa có tính liên kết cao, vẻ thần bí dễ ngụy trang khi bán những thứ kỳ lạ.
Đối với đào giếng thì có hẳn một khu chợ nằm biệt lập với khu dân sinh, lý do đơn giản rằng thứ dùng để tạo ra bùa ngải, lục ngữ gọi là “trời mưa”, nào có phải thứ dễ nhìn, làm sao bán chung chợ với người thường cho được. Chợ Xẻng chính xác không phải là địa danh, mà là ám chỉ nơi bán đồ cho đào giếng. Vy nói, ở miền tây có sáu Chợ Xẻng lớn, nằm ở Tân An, Mỹ Tho, Sa Đéc, Châu Đốc, Hòn Đất, và Châu Thành (Trà Vinh). Trong đó, Chợ Xẻng Châu Thành là chợ lớn nhất trong các chợ lớn, gọi dễ hiểu là chợ đầu mối, vậy nên Vy mới phải cất công đến tận đây mua, bên cạnh đó từ Châu Thành đi Lưu Cừ cũng không xa.
Còn tại sao gọi là Chợ Xẻng chứ không phải chợ gì đó khác, có lẽ là vì, xẻng dùng để đào giếng chăng?
Chợ đầu mối đào giếng nằm ở Trà Vinh mà không phải là ở những địa phương biên giới với Cam đều có lý do cả. Đó lại là một câu chuyện lịch sử. Như đã biết, vào những năm 1700, một nhóm người di dân, theo chân Mạc Cửu lẩn trốn nhà Thanh đã đem đến cho lục lâm một nhánh mới, gồm những thầy phong thủy, vốn là những người bị nhắm đến cho việc xây lăng mộ hoàng tộc. Việc xây lăng không hề đơn giản, thậm chí là nguy hiểm tính mạng, giết người diệt khẩu để bảo vệ kho tàng là không hiếm. Nhóm người này ngoài miệng nói rằng chống nhà Thanh, thực ra chỉ muốn giữ mạng mà thôi. Khi cập bến Hà Tiên, họ tiếp xúc với một thứ phong thủy rất khác, lý thuyết vẫn căn cứ trên âm dương, nhưng ngoài ra còn bị ảnh hưởng bởi quỷ thần. Rất nhiều thầy ngải, thầy luyện thiên linh, do bị truy sát tận Miến Điện, Xiêm La, Nam Vang, bỏ chạy qua miền Nam rất nhiều.
Vào những năm 1700, miền Nam bị chia nhỏ ra rất nhiều vùng lãnh thổ, được kiểm soát bởi những thế lực khác nhau. Khi đó, vùng Hà Tiên – An Giang, tuy lý thuyết vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Mạc Cửu, nhưng chuyện chính quyền họ Mạc bắt một vài tử tù Nam Vang hay Miến Điện giao cho chính quyền bên kia biên giới để giao hảo không có gì lạ, nên nhóm thầy ngải không chọn dừng chân ở vùng này, mà tiếp tục di chuyển đến Trà Vinh. Từ Trà Vinh có thể chạy ra nhiều đường, dễ nhất là vượt biển, đón gió, đi xuống các đảo phương Nam, thêm nữa là Trà Vinh là vùng đất trung lập lúc bấy giờ.
Vùng Trà Vinh từ xưa có rất nhiều cộng đồng người Khmer sinh sống, làng ấp chùa chiền vô số, những thầy ngải lẩn trốn đến vùng này ẩn cư không khó để hòa nhập. Nhóm thầy ngải định cư ở Trà Vinh đặc biệt thu hút nhóm thầy phong thủy ở Hà Tiên. Cả hai tạo thành một hệ thống hỗ trợ nhau rất hiệu quả. Thầy phong thủy cần phương thức trấn yểm đặc thù của vùng đất mới. Thầy ngải cần cách hoạt động mới để che mắt chính quyền. Cả hai dần thống nhất, đi đến tên gọi đào giếng như sau này đã biết.
Tôi sực nhớ lại thắc mắc của mình, vì lục lâm trước giờ đều có cách hành xử riêng của mình, vậy trong trường hợp đào giếng muốn dùng ngải, thì ngải ấy là thứ gì? Vy nói, thường nghe rằng nguyên bản thân cây ngải thì nó chỉ đơn thuần là một loại cây thảo mộc, nhưng khi được một pháp sư hô thần và truyền cho nó thì nó mang công năng đặc biệt, có thể giúp trừ tà, trị bệnh, cầu tài.
Cây ngải dân gian tương truyền thì có nhiều kích cỡ, nhưng chủ yếu là có lá dẹp, dài, mỏng như chỉ, ít khi ra hoa, có củ, củ to hay nhỏ tùy vào chức năng. Đào giếng thì khác, trong mắt đào giếng, bất kỳ loài cây nào cũng có thể luyện thành ngải. Cây cũng có sự sống, có máu thịt của riêng nó, quan trọng là đào giếng dùng đạo hạnh bản thân, đánh thức được linh tính của cây, ban cho nó sự sống, để từ sự sống của nó sẽ giúp “cưu mang” một linh hồn khác, thường là âm binh, quỷ dữ.
Nói về chuyện ma quỷ trốn trong cây cối thì nhiều. Dân gian truyền rằng: “Chuối che, tre đóng, còng chui” là vì vậy. Ba loài cây đó hút thu âm khí mạnh, kiềm tỏa bên trong, dương khí khó lòng xâm nhập, vậy nên ma quỷ trú ngụ cũng không ít. Chuối có tán lá rộng, che được; tre tựa như hàng rào dày đặc, đóng chặt, bảo vệ ma quỷ; còng chui tức là âm khí trú tại thân cây, dưới các vòm lá.
Ngải trong ngôn ngữ của đào giếng tức ám chỉ một loại thực vật bất kỳ, đã được đánh thức linh tính, tiềm ẩn âm khí ma quỷ âm binh bên trong, cho chúng nơi trú ngụ, để sai sử khi cần thiết. Đào giếng khi nuôi ngải đủ mạnh, sẽ làm lễ “cắt nước”, là lục ngữ, tức là họ sẽ cắt một phần thân cây đã được nuôi ngải, để vào hoặc là bình chứa, hoặc là bùa, hay như một số đào giếng thích cách là để dưới đầu ngón tay. Thực ra công dụng thì như nhau, tùy trường hợp thì làm khác, ví như để đánh nhau thì nhét vào đầu ngón tay, làm bùa thì gói vào giấy, trấn yểm thì bỏ vào bình, vân vân.
Lại kể về chuyện cây cỏ nuôi ma. Ngày tôi còn bé, độ lớp hai, ba, lần ấy xóm tôi có một vụ tai nạn thương tâm. Một chú kia do đường trơn, xe bị trượt, văng xa hơn hai mươi mét, đầu đập vào cây dừa gần đó, chết tại chỗ, da đầu bong ra một mảng dính vào bụi chuối kế bên. Bảy ngày sau, tầm chín giờ khuya, một ông bán bánh mì đang lững thững đạp về, đi ngang đoạn đường vắng tự dưng lưng lạnh như ướp đá, nghe bên kia đường có tiếng người gọi:
– Ông anh ơi, lấy tôi bảy ổ bánh mì, đói quá!
Ông bán bánh mì quay lại nhìn thì thấy gần đó có nhà sáng đèn, đinh ninh là người gọi vừa mới quay đi vào nhà lấy tiền, vì tiếng kêu rõ mồn một, ông bán bánh lấy ra bảy ổ, vừa nói đùa:
– Ăn gì mà dữ vậy hia?
Từ bụi chuối, tán lá lay động, giọng nói ấy lại vang lên:
– Đói quá, bảy ngày nay tui đâu có ăn gì đâu!
Ông bán bánh mì quay lên nhìn thì sợ đến té đái: mặt dưới tàu lá, sống lá bị tách ra bởi đôi bàn tay tím ngắt, vừa đủ chỗ một cái đầu không còn da thò ra ngoài, nhìn mình chằm chằm. Ông bán bánh mì sợ quá, dù té đái nhưng vẫn bò vào nhà gần đó, kêu khóc. Chủ nhà mới ra hỏi chuyện, ông bán bánh mì kể lại đầu đuôi thì chủ nhà nói rằng hôm nay là đợt cúng bảy ngày, ông bị chết kia còn quyến luyến dương gian nên về thăm. Khi ra xe xem lại thì quả nhiên bảy ổ bánh mì đã bị thiu, mốc lên xanh rì, trong rổ xe toàn là giấy tiền vàng bạc.