[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 50: Đám tang người thợ mộc huyền thoại

[Tiểu thuyết] Cửu Long Quái Sự Ký – Kỳ 50: Đám tang người thợ mộc huyền thoại

Kỳ trước, Cả bọn may mắn chạy thoát khỏi Đảo Bia Mộ, rồi thẳng tiến về Nam Du. 

Tàu cập cảng Bãi Chệt ở hòn Củ Tron khoảng một giờ sau, sau khi ông lão cột thuyền đàng hoàng thì anh Hùng liền bẻ cái vô lăng ra thêm một lần nữa rồi máng nó vào cái ba lô bộ binh của mình. Ông lão dẫn đường. Khi đi qua khu nhộn nhịp nhất quần đảo Nam Du này cũng chính là trung tâm của cả hòn, tôi bị những hải sản tươi rói, những quầy đồ lưu niệm đủ màu sắc, những rặng dừa mọc đằng xa xa, những tiếng chào hàng ầm ĩ làm cho ấn tượng dữ dội. Tôi nghĩ về đêm ở đây chắc nhộn nhịp lắm, nào là cửa hàng tạp hóa, karaoke, cà phê, nhà nghỉ, quán nhậu, vân vân đều tập trung ở Bãi Chệt này. 

Ra khỏi trung tâm, chúng tôi đi vào một con đường mòn nhìn rất thơ mộng, hai bên đường cây che mát rượi, dưới đất lá khô rơi đầy tạo cảm giác như đang đi vào chốn thâm sơn cùng cốc nào đó. Ở đây nhà mọc lên khá thưa, chắc là khu của người bản địa, có một căn nhà đông người hơn bình thường, cờ đen, khăn tang treo đầy chứng tỏ chúng tôi đã đến nơi. Ông lão cởi mũ rồi bước vào nhà. Từ bên trong, một anh thanh niên bước ra đỡ tay ông. Anh có nước da ngăm đen, cơ bắp cuồn cuộn, mái đầu đinh, khuôn mặt vuông vức, rắn rỏi, ánh mắt từng trải.

Anh thanh niên dẫn chúng tôi vào một bàn đang bỏ trống, trên đó có mồi và tí rượu, thằng Sinh vừa thấy liền rót ra uống lấy uống để. Anh thanh niên hỏi chuyện ông lão một hồi thì ông xin phép đi thắp nén nhang, khi ông vừa quay đi, ánh mắt của anh ta thay đổi rõ rệt, anh nhìn anh Hùng rồi nói: 

– Lan mọc trên đất, người hái lan cứ lo hái lan, sạp thịt ngoài khơi xa thế này, làm gì có lan mà đến, ngoài trồng lan, ai mới đi mua thịt?

Nghe xong, cả bọn ba người đều bất ngờ. Tú Linh nói: 

– Lan núi lan rừng có hơn tám mốt loại, tìm cũng không biết đường, đói cơm nên tìm thịt, tìm thịt để lấy lan, ăn no đi đường cần Tẩu Lộ.

Sinh uống miếng rượu rồi thêm vào: 

– Miễu biết hát còn nhiều, người xây còn thì người đập vẫn còn.

Anh Hùng nói: 

Săn lan thường thì dễ, săn lan khó mới quý. Lan Kiên Lương nghe đâu còn dưới đất chưa mọc lên, nhân vậy mà đi săn lan thử coi sao.

Anh thanh niên đáp: 

– Thịt vẫn còn, nhưng người cầm dao đi mất, không biết còn bán được không, nhưng thử để xem người săn lan có đói thịt không đã.

Đoạn, anh thanh niên đó đứng lên, lấy ly cho từng người, rót một vòng rượu. Mời chúng tôi uống rồi anh quay về vị trí của mình, ngồi xuống và bắt đầu kể. Anh tự giới thiệu mình tên Quý, ba anh được người dân trong vùng này gọi thân mật là Ba Lành, ông làm nghề thợ mộc. Cái gì liên quan đến gỗ ông đều làm được, nhưng công việc chủ yếu là đóng và tu sửa tàu thuyền cho ngư dân. Lục lâm cũng thường hay ghé đến, nhờ ông sửa chữa hoặc chế tạo vũ khí cho họ. Tất nhiên khoản tiền họ phải bỏ ra là không nhỏ. Ba Lành chính là một trong mười người đệ tử của Lý Tổ sư, tiếng tăm ai ai cũng biết. 

Khoảng ba ngày trước, có một nhóm người đến nhờ ông giúp làm vài thứ gì đó, nghe xong ông nổi trận lôi đình, đuổi cổ họ về, lúc đó cũng đã khuya. Anh Quý lo công việc ở cầu cảng Bãi Chệt xong, vừa về đến nhà thì thấy ba mình đang mắng trời chửi đất gì đó dữ lắm. Biết có chuyện chẳng lành, anh vào khuyên nhủ rồi còn làm vài món ăn, nhâm nhi tí rượu với ông. Lúc sau ông mới chịu bình tĩnh lại, thế nhưng anh Quý vẫn còn khá lo lắng, ba mình đã tuổi cao sức yếu, từ khi Lý Tổ sư mất, mấy chuyện sóng gió lục lâm ông đã gác lại, chẳng biết thế lực gì làm ông trở nên như vậy.

Anh Hùng hỏi: 

– Vậy những người đến nhà nhờ vả hôm đó, anh có hỏi lại ba anh không?

Anh Quý đáp: 

– Tất nhiên. Ba tui nó họ gồm có ba người, ăn mặc cũng bình thường, chỉ lạ cái là trên đầu họ quấn khăn rằn sọc trắng đen không thấy được khuôn mặt, ngoài ra họ còn tỏ ra một thứ áp khí quỷ dị rất nặng. Ba tui nghĩ họ không phải thứ lục lâm thường, họ chỉ dám thì thầm vào tai ông thứ họ muốn, là một cái xích sắt. Khi ba tui hỏi làm cho ai thì họ tự xưng mình là Na Long Hội. Lúc đó ba tui mới nổi trận lôi đình, hai ngày sau thì ông chết.

Vẻ mặt anh Hùng hơi thất kinh, nhưng chỉ trong một thoáng, anh nói tiếp: 

– Na Long Hội đã tan rã lâu rồi, làm gì có chuyện đến nhờ làm xích sắt. Không phải muốn xúc phạm ông anh đây, nhưng tôi không nghĩ họ thật sự là Na Long Hội đâu!

Anh Quý trả lời: 

– Không cần phải màu mè, chuyện gì rồi thì cũng đã rồi. Quý tôi tuy cũng chỉ có vài ba thủ thuật bỏ túi nhưng nhìn qua cũng dư biết mục đích của mấy anh chị. Sao nào?

Anh Hùng cười rồi lấy cái vô lăng để lên bàn, vừa trông thấy vật này anh Quý tỏ ra hết sức bất ngờ, chắc anh nhận ra nó được chính bàn tay ba mình làm ra. Anh chụp cái vô lăng rồi săm soi kỹ lắm, anh nói, tay chỉ về phía ông lão: 

– Đây là cái vô lăng ba tui làm cho chú Năm mà…

Cả đám im lặng, chờ anh Quý nói tiếp.

– Ngày xưa có một chú kia lại rủ ba tui đi bán thịt ở Mo So, chắc cũng ngót hai mươi năm rồi. Ông tìm thấy một khúc gỗ trong hang. Xong lần đó về nhắc đến Kiên Lương là ba tôi lạnh người. Tên chính xác của khúc gỗ là Ưu Đàm Thủy Nha Mộc. Loại gỗ này rất quý, âu cũng nhờ vào cách chế tác phức tạp mà ra. Phải chôn gỗ dưới bốn mươi chín mét đất trong một con trăng. Khi đào lên thì hơ lửa than hồng trong vòng ba ngày, lúc xẻ gỗ nhất định phải dùng một loại dao đặc biệt đã được yểm Ấn mới được. Nó cứng, chắc và hữu dụng vô cùng, làm nắp quan tài hay cửa thì vật chủ bên trong có thể yên tâm mấy phần. Lúc trước ba tui quý chú Năm lắm nên lấy một phần của khúc gỗ làm cái vô lăng cho ông đi biển được an toàn hơn.

Sinh nói: 

– Đại ca, anh nhìn kĩ chút nữa đi, trên đó có kinh văn đó!

Anh Quý nghe xong cũng không bất ngờ mà chỉ thở dài: 

– Tui biết, tui biết. Mấy người muốn nói đến kinh văn của Ca Lâu Thành chứ gì. Thôi đừng úp mở nữa!

Lúc này, cuộc nói chuyện tuy không căng thẳng nhưng tôi có cảm giác nếu không nói hết thì anh Quý này sẽ không tiết lộ gì thêm đâu. Anh Hùng chắc cũng biết vậy, anh lấy lại cá vô lăng rồi nói: 

– Đúng vậy. Thật ra chúng tôi đang trên đường đi tìm ngọc rết Ngô Công Kim Thân ở Kiên Lương. Hôm qua có thấy di chỉ Ca Lâu Thành, nghi ngờ rằng tàn tích ở Kiên Lương kia cũng có liên quan đến tòa thành này nên muốn điều tra ra đầu đuôi?

Anh Quý nghe đến đó thì thất kinh: 

– Mấy người định vào chỗ của Ca Lâu Vương hả? Không nên, không nên. Quỷ Hồn của ông ta cứ thi thoảng bốc lên, âm khí bao trùm cả một vùng. Vào đó khác gì đi tự tử?

Hùng đáp: 

– Cám ơn ông anh đã lo. Nhưng tôi còn một người em thân thiết, lúc trước đi săn lan không may hóa thành hồ ly nên…

Anh nghẹn lại, bỏ dở câu nói, đây là lần đầu tiên tôi thấy anh như vậy, chắc tại không khí trong đám tang này ảnh hưởng đến anh chút đỉnh. Quý thấy vậy thì thở dài, anh nói: 

– Muốn biết chắc thì chỉ có tìm lại khúc gỗ đó thôi, kinh văn đã có sẵn lúc ba tôi tìm ra nó rồi, cho nên tui nghĩ nếu coi lại có thể biết thêm chút ít. Ba tui giữ nó trong nhà kho, mấy người muốn thì tôi biếu luôn đó!

Sinh nói: 

– Ông anh hào phóng quá, nhưng tụi tui không cần của cải gì đâu.

Hùng cũng thêm vào: 

– Đúng vậy, chỉ cần biết thông tin về Ca Lâu Thành là đã quá đủ rồi. Không biết nhà kho của chú ở đâu nhỉ?

Anh Quý đáp gọn ơ: 

– Hòn Tre.

Tôi xanh mặt, quay qua lay anh Hùng: 

– Anh ơi, hòn Tre “này” hay hòn Tre “kia” vậy anh?

Anh Hùng cười gượng, Tú Linh thì chửi thề vài tiếng, Sinh nhìn tôi, nhếch mép nói: 

– Đoán xem? 

Oái oăm thay, manh mối tiếp theo lại nằm ở nhà kho của ông Ba Lành. Và nhà kho ấy lại nằm tuốt ở Hòn Tre. Số phận thật biết trêu người, cả bọn sẽ quyết định ra sao? Đón đọc kỳ sau sẽ rõ. 

Nếu yêu thích các câu chuyện tâm linh và kỳ bí, mời bạn tham gia Xóm Sợ Ma.

Chia sẻ câu chuyện này

Minh họa : Minh Thảo Võ

Thiết kế : Trần Văn Hậu

Share