Anh Hùng hỏi:
– Vậy những người đến nhà nhờ vả hôm đó, anh có hỏi lại ba anh không?
Anh Quý đáp:
– Tất nhiên. Ba tui nó họ gồm có ba người, ăn mặc cũng bình thường, chỉ lạ cái là trên đầu họ quấn khăn rằn sọc trắng đen không thấy được khuôn mặt, ngoài ra họ còn tỏ ra một thứ áp khí quỷ dị rất nặng. Ba tui nghĩ họ không phải thứ lục lâm thường, họ chỉ dám thì thầm vào tai ông thứ họ muốn, là một cái xích sắt. Khi ba tui hỏi làm cho ai thì họ tự xưng mình là Na Long Hội. Lúc đó ba tui mới nổi trận lôi đình, hai ngày sau thì ông chết.
Vẻ mặt anh Hùng hơi thất kinh, nhưng chỉ trong một thoáng, anh nói tiếp:
– Na Long Hội đã tan rã lâu rồi, làm gì có chuyện đến nhờ làm xích sắt. Không phải muốn xúc phạm ông anh đây, nhưng tôi không nghĩ họ thật sự là Na Long Hội đâu!
Anh Quý trả lời:
– Không cần phải màu mè, chuyện gì rồi thì cũng đã rồi. Quý tôi tuy cũng chỉ có vài ba thủ thuật bỏ túi nhưng nhìn qua cũng dư biết mục đích của mấy anh chị. Sao nào?
Anh Hùng cười rồi lấy cái vô lăng để lên bàn, vừa trông thấy vật này anh Quý tỏ ra hết sức bất ngờ, chắc anh nhận ra nó được chính bàn tay ba mình làm ra. Anh chụp cái vô lăng rồi săm soi kỹ lắm, anh nói, tay chỉ về phía ông lão:
– Đây là cái vô lăng ba tui làm cho chú Năm mà…
Cả đám im lặng, chờ anh Quý nói tiếp.
– Ngày xưa có một chú kia lại rủ ba tui đi bán thịt ở Mo So, chắc cũng ngót hai mươi năm rồi. Ông tìm thấy một khúc gỗ trong hang. Xong lần đó về nhắc đến Kiên Lương là ba tôi lạnh người. Tên chính xác của khúc gỗ là Ưu Đàm Thủy Nha Mộc. Loại gỗ này rất quý, âu cũng nhờ vào cách chế tác phức tạp mà ra. Phải chôn gỗ dưới bốn mươi chín mét đất trong một con trăng. Khi đào lên thì hơ lửa than hồng trong vòng ba ngày, lúc xẻ gỗ nhất định phải dùng một loại dao đặc biệt đã được yểm Ấn mới được. Nó cứng, chắc và hữu dụng vô cùng, làm nắp quan tài hay cửa thì vật chủ bên trong có thể yên tâm mấy phần. Lúc trước ba tui quý chú Năm lắm nên lấy một phần của khúc gỗ làm cái vô lăng cho ông đi biển được an toàn hơn.
Sinh nói:
– Đại ca, anh nhìn kĩ chút nữa đi, trên đó có kinh văn đó!
Anh Quý nghe xong cũng không bất ngờ mà chỉ thở dài:
– Tui biết, tui biết. Mấy người muốn nói đến kinh văn của Ca Lâu Thành chứ gì. Thôi đừng úp mở nữa!
Lúc này, cuộc nói chuyện tuy không căng thẳng nhưng tôi có cảm giác nếu không nói hết thì anh Quý này sẽ không tiết lộ gì thêm đâu. Anh Hùng chắc cũng biết vậy, anh lấy lại cá vô lăng rồi nói:
– Đúng vậy. Thật ra chúng tôi đang trên đường đi tìm ngọc rết Ngô Công Kim Thân ở Kiên Lương. Hôm qua có thấy di chỉ Ca Lâu Thành, nghi ngờ rằng tàn tích ở Kiên Lương kia cũng có liên quan đến tòa thành này nên muốn điều tra ra đầu đuôi?
Anh Quý nghe đến đó thì thất kinh:
– Mấy người định vào chỗ của Ca Lâu Vương hả? Không nên, không nên. Quỷ Hồn của ông ta cứ thi thoảng bốc lên, âm khí bao trùm cả một vùng. Vào đó khác gì đi tự tử?
Hùng đáp:
– Cám ơn ông anh đã lo. Nhưng tôi còn một người em thân thiết, lúc trước đi săn lan không may hóa thành hồ ly nên…
Anh nghẹn lại, bỏ dở câu nói, đây là lần đầu tiên tôi thấy anh như vậy, chắc tại không khí trong đám tang này ảnh hưởng đến anh chút đỉnh. Quý thấy vậy thì thở dài, anh nói:
– Muốn biết chắc thì chỉ có tìm lại khúc gỗ đó thôi, kinh văn đã có sẵn lúc ba tôi tìm ra nó rồi, cho nên tui nghĩ nếu coi lại có thể biết thêm chút ít. Ba tui giữ nó trong nhà kho, mấy người muốn thì tôi biếu luôn đó!
Sinh nói:
– Ông anh hào phóng quá, nhưng tụi tui không cần của cải gì đâu.
Hùng cũng thêm vào:
– Đúng vậy, chỉ cần biết thông tin về Ca Lâu Thành là đã quá đủ rồi. Không biết nhà kho của chú ở đâu nhỉ?
Anh Quý đáp gọn ơ:
– Hòn Tre.
Tôi xanh mặt, quay qua lay anh Hùng:
– Anh ơi, hòn Tre “này” hay hòn Tre “kia” vậy anh?
Anh Hùng cười gượng, Tú Linh thì chửi thề vài tiếng, Sinh nhìn tôi, nhếch mép nói:
– Đoán xem?