Tôi đưa mắt nhìn ra xung quanh, chỉ tuyền một màu đen, tiền rớt cách ba mét chưa chắc đã thấy mà nhặt. Anh Hùng chắc cũng nghĩ giống tôi, anh đưa tay lên vuốt mặt, hình như sắp đưa ra quyết định liều lĩnh gì đó. Đặt ba lô xuống rồi móc cây đèn pin ra, anh đưa nó lên mắt rồi tắt mở mấy lần như đang kiểm tra độ sáng, xong thì chậc lưỡi nói:
– Không đủ sáng!
Tôi hốt hoảng nói:
– Bộ anh đinh mở đèn pin trong đây hay gì á, nhưng mà thằng Sinh nói lúc ở hang Reahu…
Anh cắt ngang:
– Đúng vậy, ánh đèn sẽ thu hút sự chú ý của mấy cái vong. Nhưng mà, mày cứ nhìn con đường đi, mặt nước thì trải dài hun hút, con đường thì không thấy đích đến, lại tối như hũ nút. Giờ cầm đuốc xông vào, trượt chân té xuống dưới thì xong phim. Anh thà đánh với lũ vong ở chỗ khô, như vậy cơ hội sống sót vẫn lớn hơn rất nhiều.
Đoạn, anh quay sang Thuỳ:
– Chắc em có mang đèn pin công suất lớn đúng không?
Cô gật đầu rồi lôi ra hai cây, tay cầm màu đen, mặt đèn to như cái tô. Anh Hùng nhận đèn rồi móc trong ba lô của mình một cuộn vải, trên đó có vài ký hiệu ngoằn ngoèo khó đọc. Anh quấn chúng quanh mặt đèn của hai cây công suất lớn và bốn cây nhỏ. Tôi thắc mắc đó là cái gì. Anh làm xong rồi mới nói:
– Đây là vải liệm thường rồi vẽ bùa lên thôi, có công dụng kìm lại ánh sáng chói chang đầy dương khí của đèn pin, làm giảm nguy cơ dẫn dụ ác vong.
Xong thì cả bọn lại lên đường. Mấy cây đèn của bốn người bọn tôi thì chỉ là loại thường, ánh sáng chiếu không xa, dễ bị nhòe, cũng may có thêm hai cây chuyên dụng của Thùy và Tùng, ánh sáng xa và rõ hơn. Sinh đi đầu dẫn đoàn một cây, đến Thùy, tôi, Tú Linh, Tùng, anh Hùng chốt đoàn một cây, làm vậy để tiết kiệm pin, đề phòng bất trắc kẹt lâu hơn dự tính. Tôi quay sang hỏi Tú Linh sao cô biết Biển Oan Hồn này, cô ấy nói:
– Chế thấy miếng da có ghi, sau chiến tranh, Ca Lâu Vương đem những tù nhân xử tử một lượt, làm thành con đường đi ngang “long vương”, đến thành chủ. Cứ tưởng nó nói quá lên, ai dè có thật. Sau đó, các tử tù trong vương quốc khi xử tử đều bị vứt ra đây.
Tôi nghe mà lạnh cả người. Con đường “sỏi” đầu lâu dường như dài tít tắp vậy, cái gì mà cách thành chủ mười tám cây số. Tôi lội bộ vã mồ hôi ra, phần vì đi trên xương rất khó, trơn trượt dễ té, hai là địa hình cũng nhấp nhô như những đụn cát bình thường. Xung quanh ngoài ánh đèn là không thấy gì khác. Đang lúc leo lên một con dốc nhỏ, tôi bỗng thấy phía xa xa, một thứ gì đó như đèn tín hiệu trên mấy tháp ăng ten truyền hình, cứ chớp tắt liên tục. Khi nãy mới vào tôi có nhìn nhưng tuyệt nhiên không thấy gì khác cả, giờ xuất hiện thứ này không khỏi khiến tôi càng thấy khó nghĩ. Tôi kêu mọi người nhìn lên, họ cũng bất ngờ hệt tôi vậy. Ánh sáng không nhỏ như đèn tín hiệu, có vẻ nó to hơn, nó có màu đỏ lập lòe rất ma mị. Tú Linh nói:
– Miếng da lúc nãy có nhắc đến “con mắt quan sát cả thành”, phải chăng là nó?
Tùng quay sang vui mừng nói:
– Con mắt gì, đèn tín hiệu đó. Chắc ở đó có đường ra. Sắp được cứu rồi!
Sinh đâu thể để tên Tùng nói nhảm mãi được, bèn đốp lại:
– Ngoài anh ra có ai mắc nạn gì mà để “cứu”? Con mẹ nhà anh, không làm gì được thì cứ im lặng, thở ra câu nào là chịu không nổi câu đó!
Tùng tuy là con thỏ đế chính hiệu, nhưng độ cãi cùn cũng không thua ai, y bèn bảo:
– Các người bị khùng rồi, cái gì mà Ca Lâu Vương, cái gì mà trường sinh bất tử, hành tung mấy người vô cùng đáng ngờ, không chừng thực ra lại là đám cướp đường cướp chợ, định bán nội tạng bọn tôi chứ gì?
Anh Hùng từ phía cuối đoàn thấy có lùm xùm định đứng ra can, chưa kịp làm thì Sinh đã chộp cổ áo Tùng, giọng nói pha lẫn tiếng nghiến răng ken két:
– Tao nhắc lại lần nữa. Một là mày biến khỏi cái nhóm này, tự đi về chỗ con nhện rồi nó đưa mày lên. Hai là mày câm mồm. Còn nói xàm thì tin tao một chưởng đưa mày về với cát bụi không?
Thấy tình hình không ổn, Thùy và Tú Linh can ra. Tay Tùng lẽo đẽo đi về cuối đoàn, bị anh Hùng lườm thêm cái nữa, miệng hắn nghe đâu vẫn lẩm bẩm:
– Ánh đèn thiệt mà…
Anh Hùng nói:
– Ánh đỏ như vậy, đúng là nếu phát ra từ viên ngọc rết thì một là khó tin, hai là viên này phải to dữ lắm!
Chúng tôi vừa đi về trước, thỉnh thoảng lại ngẩng đầu lên nhìn ánh chớp đỏ, có nó cũng hay, giống như là tín hiệu dẫn đường. Nó ở tít trên cao nên chúng tôi cứ nhắm hướng đó mà đi có lẽ sẽ thuận tiện rất nhiều. Tôi nhìn sang thấy Thùy có vẻ đang rất lo lắng, bèn bắt chuyện với cô:
– Em học địa chất hả, bên đó có giải thích được làm sao có cái động khổng lồ thế này dưới hang Mo So không?
Thùy ngơ ngác, bảo cô không chắc lắm rồi quay ra hỏi Tùng, anh ta quay trước sau nhìn Sinh và Hùng như kiểu: “Em không nói bậy đâu!”, rồi mới dám mở lời.
Theo Tùng, địa hình như thế này vô cùng hiếm. Nếu theo địa chất miễn cưỡng mà lý giải, chỉ có thể nói là xác suất vô cùng nhỏ. Khả dĩ, có thể vào Thế Canh Tân (Còn gọi là Thế Pleistocen, khoảng từ 1.8 triệu năm đến 11.500 năm trước), vùng này vẫn còn những vụ kiến tạo nhỏ, hai mạch dung nham nằm tương đối gần nhau (gần nhau trong địa chất có khi là vài trăm kilomet là chuyện bình thường) phun trào cùng lúc, đè chồng lên lớp trầm tích có từ trước. Tưởng tượng có thể như thế này, lấy một xô cát đổ ra, sau đó đổ kim loại nung chảy lên bề mặt cát, đợi kim loại cứng lại thì moi cát ra, bên trong kim loại có một khoảng trống. Thiên nhiên ngày xưa, khả năng dòng chảy mạch nước thay đổi, vô tình xói mòn và kéo theo đất cát, phù du còn lại trong lòng hang, tạo thành một kỳ tích tuyệt diệu chưa từng thấy.
Nghe đến đó, bất giác tôi nhờ Sinh lia đèn lên “trần” hang, hoàn toàn không thấy được đỉnh, chỉ có bóng đen lặng lẽ nuốt trọn ánh sáng. Nghe Tùng giải thích xong, Thùy bèn chêm vào:
– Anh Tùng giỏi mấy vụ này lắm đó, ngoài ra còn phân biệt cổ vật hoặc phán đoán niên đại nữa, em nghĩ anh ấy sẽ hữu ích cho nhóm mình.
Chỉ thấy gã Tùng lại bẽn lẽn nhìn Hùng và Sinh cái nữa. Tú Linh quay sang hỏi Tùng:
– Đó giờ cưng có biết núi nào ở gần đây tên là Địa Nguyệt Sơn không?
Cả Tùng và Thùy đều ngơ ngác, lắc đầu không biết. Tú Linh bèn giải thích thêm về miếng da mà Từ Khoái viết về Ca Lâu Thành có hai mươi thành trong lòng núi, trải dài trên Địa Nguyệt Sơn dài trăm dặm, rộng mười dặm, cả vùng Kiên Lương Hà Tiên này đào đâu ra con núi hoành tráng thế? Ngay cả lên vùng Thất Sơn cũng không có. Ngoài ra, cô còn kể về tàn tích dưới biển ngoài khơi Hòn Sơn. Tú Linh bảo là nếu có chuyện tạo hang động kỳ vĩ thế này thì có khả năng thực tế về Địa Nguyệt Sơn là cái gì? Tùng nghĩ một hồi rồi mới nói, nếu vậy, xác suất cao thời kỳ đó, Địa Nguyệt Sơn là một dãy núi hình cánh cung, khởi nguồn từ Hà Tiên, vòng qua Kiên Lương, cong ra hướng biển đến tận Hòn Sơn? Nếu vậy có thể giải thích được những đồi núi thấp ở Kiên Giang ngày nay thường co cụm lại, chạy theo một hướng.
Thực tế ở vùng Hòn Đất, cách trung tâm thành phố Rạch Giá bốn mươi lăm kilomet, có một cụm núi gọi là Ba Hòn, gồm: Hòn Me, Hòn Đất và Hòn Quéo, xung quanh cũng có các núi nhỏ khác, Tùng không biết chúng có nằm trong hệ thống Ca Lâu Thành hay không, nếu có thì quả thực Từ Khoái không hề nói thêm mà thậm chí còn làm giảm độ hoành tráng của dãy Địa Nguyệt Sơn. Có thể nói ngắn gọn lại thì thế này: vào thế Canh Tân, vùng ngày nay thuộc Hà Tiên, Kiên Lương trải dài ra Hòn Sơn còn là biển, kiến tạo địa chất thời kỳ trước tạo ra một dãy núi hình cánh cung theo hướng kể trên, vòng cung lõm quay về Tây Bắc. Tự nhiên thay đổi dòng chảy cuốn hết đất cát đọng trong hang ra để lộ phần hang trống, cộng với nước biển rút đi, tạo thành nơi sinh sống lý tưởng.
Đến đầu thế kỷ thứ hai, nền tảng Ca Lâu Thành được thành lập trong những hang động xuyên suốt dãy Địa Nguyệt Sơn này. Cộng những ngọn núi vừa ở Kiên Giang, kể cả Ma Thiên Lãnh (Hòn Sơn), trừ đi những cụm núi con mọc ra từ nhánh chính, thì vừa tròn có hai mươi cái, vừa khít với truyền thuyết Ca Lâu Thành có hai mươi động. Về chuyện hiện giờ nó thành tàn tích, nguyên nhân do sự biến động địa chất lần cuối ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, khiến dãy Địa Nguyệt Sơn xảy ra những đứt gãy, cộng với nước biển dâng, Ma Thiên Lãnh tách thành đảo, các đồi khác thì bị phù sa trầm tích bồi đắp phần chân nên giờ trông cứ thấp lè tè.