Vieseries Đan Thanh

[Tiểu thuyết] Đan Thanh – Kỳ 14: Một đóa hoa sen, một thế giới.

Tác giả Chiết Tri
[Tiểu thuyết] Đan Thanh – Kỳ 14: Một đóa hoa sen, một thế giới.

– Làng Cổ Tích cách Vong Đô khá xa, nếu không tìm được phương tiện di chuyển thích hợp thì sẽ tốn rất nhiều thời gian. – Anh Thông đứng ở ven đường nơi ngoại ô Vong Đô, một tay giơ lên cao, một tay cầm micro đưa lên ngang miệng đồng thời to giọng giải thích cho chúng tôi nghe.

– Xin hỏi cụ thể là bao lâu? – Trọng Phu tò mò hỏi.

– Hai ngày nếu đi bộ, không tới nửa ngày nếu dùng thú Tam Không. Nhưng… – Nói đến đây thì anh Thông không tiếp nữa mà chỉ cười ngại ngùng. Tôi và Trọng Phu liếc nhau, ăn ý ngầm hiểu mà không nói toạc.

Thú Tam Không được xem như phương tiện di chuyển thông dụng và thịnh hành nhất cõi Âm. Chúng nó đủ to lớn và mạnh khỏe để chở một người trưởng thành trên lưng rồi phi nước rút. Tuy nhiên nếu đem so sánh với cái loa thùng kéo của anh Thông thì thú Tam Không khá là nhỏ bé xinh xinh, vừa mảnh mai vừa yếu ớt. Cho nên, để bảo vệ sống lưng của thú Tam Không, chúng tôi bắt buộc phải tìm một phương tiện khác, và tư thế giơ tay kỳ lạ của anh Thông chính là động tác gọi xe. Tinh mắt nhìn đến thứ mà anh Thông cầm trong tay, tôi âm thầm suy đoán liệu có phải là “nó”. Nếu là “nó” thật thì tôi không mấy thích, nhưng cũng chỉ có “nó” mới đủ khả năng mang cả ba chúng tôi cùng một gánh rượu, một cái loa thùng kéo to hơn cả cái xe bò vượt đường dài mà thôi.

“Kít!”

Trên trời bỗng vang lên một tiếng chim kêu to. Đó là một con chim rất lớn, to như con voi; nó không có da thịt, chỉ có một khung xương trắng hếu cùng với trăm ngàn sợi lông chim màu cam vàng bám hờ hững bên ngoài. Tôi âm thầm tặc lưỡi, quả nhiên, sợ cái gì thì cái đó tới. Tôi ngẩng đầu nhìn cánh chim sải dài lướt qua tầm mắt, lượn một vòng xinh đẹp trên không trung rồi đáp xuống đất một cách kiêu kỳ, tràn đầy tự tin.

Bay lượn mạnh mẽ là thế, thế nhưng kỳ lạ làm sao khi không hề có một sợi lông chim nào rơi rụng.

– Hế lô người đẹp. Lâu rồi không gặp, người đẹp muốn đi đâu, đấy?

Âm cuối cất cao rất điệu đà, phát ra từ cái mỏ sừng đen dài nhọn hoắt; con chim lớn cong cái cổ dài xuống, bỏ qua anh Thông mà hướng đến tôi, định cọ một cái. Sau đó nó hơi chững lại rồi vội vàng ngẩng lên, bởi vì tôi đã lôi cây cuốc vàng ra chắn giữa ngực.

– Đi đâu? – Nó xẵng giọng hỏi anh Thông, giả vờ như tôi là người vô hình, và hành động ban nãy của nó chỉ là mộng du mà thôi.

– Ăn quả khế trả cục vàng. – Anh Thông cười xuề xòa, giơ lên một quả khế vàng óng trong lòng bàn tay.

– Thôi dẹp giùm đi! Câu đó nó xưa như Âm phủ rồi cha. Nói nhanh, đi đâu? Ông đây bận lắm đấy có biết hay không, hả?

Con chim gắt gỏng cắt ngang anh Thông, nó rung mạnh cái đuôi dài, bực bội quét tới lui trên mặt đất, bộ dáng muốn nhanh chóng xong việc để bay đi ngay lập tức. Anh Thông không hiểu ra sao, vâng dạ đọc nhanh địa chỉ, chỉ có Trọng Phu liếc nhìn tôi rồi lại ngắm sang cây cuốc, tinh nghịch chớp mắt.

– Hì hì. – Tôi cười ngoan, đôi bàn tay nâng cuốc vàng lên cao, dùng khẩu hình để nói. – Công cụ nghề nghiệp kiêm vũ khí phòng thân.

– Khụ. – Trọng Phu ho nhẹ, liếc mắt nhìn con chim to rồi cũng dùng khẩu hình trả lời tôi. – Tôi thấy rồi.

Ở bên này chúng tôi lén lút to nhỏ, phía bên kia đã giao dịch xong. Con chim to không biết lấy từ đâu ra một mảnh giấy nhăn nhúm và một cây bút làm bằng lông vũ, viết vội viết vàng.

– Thượng lưu Tử Tuyền, trung tâm của rừng Sương Tím, hồ Hoa Đăng. – Nó đột nhiên chững lại, liếc nhanh sang tôi cùng Trọng Phu rồi mới nhìn thẳng anh Thông, hai đốm lửa bên trong hốc mắt bùng nhẹ lên, ẩn ý sâu xa. – Nể tình quen biết nên tôi nhắc nhở anh, không phải ai cũng được phép vượt qua ranh giới. Làng, có luật của Làng.

– Không sao, tôi hiểu mà. Không sao, có việc gì tôi chịu tất.

Khoảng cách không xa nên mấy câu đó tôi nghe được hết, xem ra anh Thông và con chim này quen nhau. Hơn thế nữa, nếu tôi đoán không lầm thì cả hai đều biết rõ về làng Cổ Tích. Tôi biết con chim này, với bản tính nhìn thấy con gái là sán vào tới tấp, số lần nó bị cây cuốc vàng của tôi cho ăn vài nhát đã hơn mười rồi đấy. Nó đích thị là một trong ba nhân vật chính của truyện cổ Ăn khế trả vàng: con chim báo ân. Nếu Âm phủ có làng Cổ Tích, vậy thì con chim này biết làng ở nơi đâu cũng không có gì lạ. Lạ là qua vài câu đối thoại trên, tôi thấy anh Thông cũng không giống người ngoài làng.

Con chim chép miệng nói:

– Tùy anh. – Rồi nó lại nhìn về phía tôi, ánh mắt tha thiết. – Người đẹp ơi, xong việc nhớ cho anh xin feedback nhe em!

Tôi vỗ thân cuốc, cười gằn:

– Muốn phít-bách kiểu nào?

Nó cười tít mắt:

– Kiểu nào nhẹ nhàng, dịu dàng tí.

Rồi nó vỗ cánh bay vút lên cao trước khi tôi kịp vung cuốc vàng, tiếng chim hót vang một góc trời. Móng vuốt sắc bén của con chim cầm lấy thứ gì trông như một cái túi vuông, màu nâu đất, trên thân còn có vài mảnh vá khác màu. Con chim buông lỏng móng vuốt để cái túi rơi tự do xuống bên dưới, tôi chỉ cần ngẩng đầu lên là có thể nhìn thấy miệng túi đen ngòm hướng thẳng đỉnh đầu của mình mà rơi. Mặt tôi có lẽ đã xanh mét, thế nhưng tôi không thể tránh né, bởi vì đây là cách nhanh nhất để mang cả đám chúng tôi đi đến làng Cổ Tích rồi.

Khi miệng túi đen ngòm hóa thành một cái phễu lớn nuốt chửng chúng tôi vào trong bụng, mọi âm thanh đột nhiên biến mất. Tôi tựa như hóa thành một kẻ mù, cả cơ thể trở nên mềm oặt, uốn éo lăn lộn theo dòng không khí xoay tròn mạnh mẽ, bên tai lúc này chỉ còn lại tiếng kêu cao vút vang vọng bốn phương:

– Xin cám ơn quý khách đã tin tưởng sử dụng dịch vụ của Công ty vận chuyển đường hàng không Túi Ba Gang! Kính chúc quý khách có một chuyến đi vui vẻ và những trải nghiệm đáng nhớ trong suốt cuộc hành trình! Hẹn gặp lại quý khách vào những chuyến bay lần sau! Mừ oa!

Tôi nhắm mắt, thở dài.

Thú thật là từ cách di chuyển cho đến nhân viên bán vé tôi đều chẳng ưa được tí tẹo nào, nhưng ai bảo không còn lựa chọn nào khác. Ở cái xứ Âm phủ này người ta là độc quyền, có thể mắng có thể chửi, nhưng đi thì vẫn phải cắn răng mà đi.

Tôi đau khổ quá, bởi vì tôi bị say xe nặng, vào trong này rồi chỉ muốn ói mà thôi.

Gác cung cách phục vụ qua một bên thì tôi phải công nhận dùng Túi Ba Gang di chuyển rất nhanh. Chỉ mất vài phút chúng tôi đã từ ngoại ô Vong Đô đi đến trung tâm của rừng Sương Tím, đặt chân lên lớp đất phủ rêu ẩm ướt bao quanh hồ Hoa Đăng xinh đẹp.

Trong lúc anh Thông kiểm tra lại gánh rượu cùng cái loa, tôi tranh thủ dắt Trọng Phu đi nhìn ngắm xung quanh.

– Đây là lần đầu tiên tôi tới nơi này luôn đó. – Tôi nhón chân bước đi, cẩn thận cúi xuống nhìn ngắm đáy hồ. – Nước hồ trong vắt hà, đẹp ghê á!

Cục Vàng cũng tròn mắt ngắm nhìn. Nước hồ trong veo, đáy hồ rải đầy sỏi trắng; mặt hồ thả hơn trăm ngọn đèn hoa sen, mỗi đóa hoa đều được tỉa thành tám cánh, cánh hoa màu đỏ hồng ôm lấy một ngọn đèn cầy nhỏ thay cho nhụy, trôi lững lờ trên mặt nước trong ánh sáng nhấp nháy của trăm đốm lửa vàng.

– Chị ơi! Chị ơi! Cho em xuống nước chơi đi, được không chị? – Cục Vàng nhảy phốc từ đỉnh đầu của Trọng Phu vào lòng tôi, cặp mắt lồi tròn xoe, cái đuôi nhỏ xoay tròn như cánh quạt, làm nũng muốn được vọc nước.

Cá nóc quá dễ thương, lòng tôi đã hóa mềm nhũn. Thế như với mục tiêu phấn đấu làm một vị phụ huynh lý trí mẫu mực, tôi quyết định hỏi thăm anh Thông trước.

– Anh Thông ơi, Cục Vàng có thể chạm vào nước hồ này được không ạ?

Nước hồ sạch và đèn hoa mới tinh như thế này thì chắc hẳn có người trông coi rồi, đồng thời họ cũng chăm chút vệ sinh rất kỹ nữa. Tự tiện thả cá xuống hồ là sai trái, dù con cá này không phải cá thường nhưng đó vẫn là điều không nên làm. May mắn thay, anh Thông nghe thấy tôi hỏi liền vội lắc đầu.

– Không được! Tuyệt đối không được chạm vào nước hồ!

– Hứ! – Cá nóc nhỏ lại dỗi, nhảy phốc từ lòng tôi về lại đỉnh đầu của Trọng Phu, xoay mông về phía anh Thông không chịu nhìn mặt.

Xem ra trong sổ đen của Cục Vàng, cái tên Thông sẽ mãi, luôn luôn, vĩnh viễn nằm ở vị trí đầu tiên. Giao việc dỗ dành cá nóc cho Trọng Phu, tôi giúp đỡ anh Thông chỉnh lại dây kéo của cái loa, cũng hỏi thăm anh về nước hồ.

– Hồ này giấu giếm huyền cơ gì hả anh?

Nhìn những đóa đèn hoa nở rộ tươi đẹp chầm chậm di chuyển trên mặt nước, tôi thử lẩm nhẩm tính toán trong bụng một hai lần, không ngờ lại ra được đôi ba kết quả thú vị.

– Cô Đan Thanh đoán không sai. Hồ Hoa Đăng có ẩn giấu một bí mật, bản thân nó là một trận pháp, cũng là hàng rào ngăn cách làng Cổ Tích với thế giới bên ngoài. Bằng trận pháp này, những người không thuộc về làng sẽ bị cản lại bước chân, những người không có duyên cũng sẽ bỏ lỡ nơi đây.

– Quả nhiên là trận pháp. – Tôi nhoẻn miệng cười, nếu là trận pháp thì có lẽ đôi ba kết quả tôi vừa tính ra sắp có đất dụng võ rồi.

– Kinh Đại Bản Duyên trong Trường A Hàm[1] viết rằng Phật Tỳ-bà-thi từ cõi trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ, từ hông phải mà vào; khi sanh từ hông phải của mẹ mà ra, vừa đến đất không cần người đỡ, liền đi bảy bước, ngó khắp bốn phương, rồi đưa tay lên nói rằng: “Trên trời dưới đất, duy Ta là tôn quý, Ta sẽ cứu độ chúng sanh khỏi sanh, lão, bệnh, tử.”[2] – Trọng Phu vừa bước đến cạnh tôi vừa chậm rãi nói, mắt cười sáng như sao.

– Anh nhìn ra cái gì rồi hả? – Tôi cũng cười hỏi lại.

– Bảy bước hoa sen.[3] – Trọng Phu trả lời ngắn gọn.

– Vậy anh biết bảy bước đó nên bước như thế nào không? – Tôi không ngờ Trọng Phu cũng hiểu biết về trận pháp và kinh Phật bèn tò mò hỏi thăm.

– Này thì tôi không biết rồi. – Trọng Phu nhún vai, thành thật lắc đầu.

– Thế thì đành nhờ vào anh Thông rồi. – Tôi thè lưỡi, tinh nghịch chớp mắt. – Anh Thông ơi, anh biết cách vượt qua trận pháp này không?

Nếu biết thì không còn gì tốt hơn, có kết quả chắc chắn thì tôi cũng nhẹ nhàng; giả như anh Thông không biết, khi đó tôi lại vắt óc suy tính cũng không muộn. Mười năm học hành với Thầy, tôi vẫn là tôi của ngày xưa, chúa ghét làm việc với những con số. Thật may mắn làm sao, lần này anh Thông nở một nụ cười tự tin, thậm chí tôi còn nhìn thấy hàm răng ố vàng của anh ta lóe sáng lấp lánh.

– Đương nhiên là tôi biết chứ, nếu không tôi làm sao dám đưa hai bạn đến đây.

Rồi anh ta gồng người, hai tay nâng cái loa thùng lên cao và đặt nó ngay ngắn trên đỉnh đầu; cái quang gánh treo hai khạp rượu tòn ten được anh neo chặt trên đôi vai cuồn cuộn cơ bắp của mình. Tôi nhìn cảnh này mà há hốc mồm, không ngờ anh Thông nhìn gầy teo nhưng khi gồng lên lại chắc nịch đến thế. Hình ảnh này làm tôi nhớ tới bộ phim hoạt hình nói về anh chàng thủy thủ thích ăn rau chân vịt mà tôi từng xem cùng cá nóc nhỏ và bé Thương. Quả thật không thể nhìn mặt mà bắt hình dong đâu đó!

– Hai bạn theo sát tôi nhé, cẩn thận chú ý từng đóa đèn hoa mà tôi bước lên. Đi thôi!

Anh Thông dẫn đầu nhảy lên một đóa hoa đăng cách bờ hồ nơi tôi đứng không tới một thước, trụ vững trên đó bằng một chân. Lòng bàn chân của anh cách đỉnh hoa một khoảng không nhỏ xíu, dường như phía trên đóa hoa đăng có một tấm ván vô hình đỡ lấy bàn chân anh, không cho nó đạp trúng đóa hoa mỏng manh.

– Bước thứ nhất nằm tại phương đông. – Anh Thông nói rồi nhảy thêm bước nữa. – Bước thứ hai hướng tại phương nam, thứ ba phương tây, thứ tư phương bắc, thứ năm phương dưới, thứ sáu phương trên.

Cứ như thế, hai ma một tiên tựa như chơi trò chơi nhảy lò cò nhảy trên những ngọn đèn hoa sen, từ từ đi đến giữa hồ, nơi có một đóa hoa sen thực thụ đang thì nở rộ. Và bước thứ bảy, cũng là bước cuối cùng, nơi chúng tôi đáp xuống chính là đóa hoa sen xinh đẹp tràn trề sức sống ấy.

_____

Chú thích:

[1]. Thông tin dựa trên bản dịch Việt của Thích Tuệ Sỹ, được thực hiện theo bản Hán dịch “Trường A hàm kinh”, gồm 22 quyển, do Phật-đà-da-xá (Buddhayaśsa) tuyên đọc thuộc lòng (ám đọc) bản Phạn, và Trúc Phật Niệm truyền dịch sang Hán văn. (Trích từ phàm lệ của Trường A Hàm – Tuệ Sỹ dịch và hiệu chú)

Kinh Trường A-hàm được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập 1, gồm những kinh điển dài nhất trong A-hàm mà thành. Toàn kinh chia làm 4 phần, gồm 30 kinh. Trong đó, phần thứ nhất nói về bản thủy và sự tích của Đức Phật; phần thứ hai nói về việc tu tập các hạnh và cương yếu giáo pháp của Phật thuyết; phần ba nói về các luận nạn đối với ngoại đạo và dị thuyết; phần thứ tư ghi chép về tướng trạng khởi nguyên của thế giới (vũ trụ). (Theo Thích Nguyên Hiền)

[2]. Nguyên văn: Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử.

[3]. Trong truyền thuyết Phật học, sau khi được sinh ra, Đức Phật bước đi bảy bước và mỗi bước đều có một đóa hoa sen hiện ra đỡ lấy chân Ngài.

Kinh Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi cũng như kinh Ưu Bà Di Tịnh Hạnh Diệu Pháp môn phẩm Thụy Ứng ghi lại như sau: “Sự Đản sinh ấy được đánh dấu qua tiến trình bảy bước nở hoa sen.”

  1. Bước thứ nhất: Đức Phật nhìn về Phương Đông và bảo rằng: “Phương Đông ấy chính là ngọn đuốc soi đường tối thượng cho chúng sinh trong mọi lĩnh vực”. (Thị Đông phương vị chúng sinh vi đạo thủ cố). Đức Phật lấy phương mặt trời mọc để chỉ cho sự phát huy trí tuệ.

  2. Bước thứ hai: Đức Phật nhìn về phương Nam và bảo rằng: “Phương Nam ấy chính là ruộng phước an lành cho chúng sinh gieo gặt”. (Thị Nam phương vị chúng sinh lương phước điền cố). Đức Phật lấy phương Nam để chỉ cho chúng sinh nhờ phát huy trí tuệ, biết quán chiếu vào sâu trong lòng thực tại nên biết quy hướng về những nghiệp nhân tốt lành.

  3. Bước thứ ba: Đức Phật nhìn về phương Tây và bảo rằng: “Phương Tây ấy chỉ cho chúng sanh cách hóa giải động cơ sinh tử, chấm dứt sanh thân cuối cùng”.(Thị Tây phương vị chúng sanh dĩ tối hậu thân cố). Phương Tây là phương mặt trời lặn, để chỉ cho sự an nghỉ tuyệt đối của tâm thức.

  4. Bước thứ tư: Đức Phật nhìn về phương Bắc và bảo rằng: “Phương Bắc ấy chỉ cho chúng sanh là ta đã được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác”. (Thị Bắc phương vị chúng sanh ngã đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề). Đến đây, Đức Phật bắt đầu vận chuyển bánh xe pháp. Ngài như vị lương y biết bệnh tâm của chúng sinh, ai bị bệnh nặng thì được Ngài cứu trước. Vì vậy, Ngài chuyển qua bước thứ năm tiếp cận với cuộc đời để tùy duyên mà hóa độ.

  5. Bước thứ năm: Đức Phật nhìn xuống phương dưới và bảo rằng: “Phương dưới ấy ta sẽ giúp cho chúng sanh chinh phục ma lực để vượt thoát khổ đau” (Thị Hạ phương vị chúng sanh dị dục hàng ma cố). Vì lòng thương tưởng đến nhân sinh đang có nhiều đau khổ do cố chấp, tham lam, sân hận… gây ra, nên Ngài tùy duyên tuyên thuyết chân lý để cho mọi người lần lượt từ bỏ những tham chấp ấy.
  6. Bước thứ sáu: Đức Phật chỉ lên phương trên và bảo rằng: “Phương trên ấy là chỉ cho chúng sanh đang sống đúng với năm nhân cách và tu tập mười thiện nghiệp” (Thị Thượng phương vị chúng sanh quy y thiên nhân cố). Đây là những thiện nghiệp cần hướng tới thực tập để thoát khỏi khổ đau.

  7. Và cuối cùng là bước thứ bảy: Đức Phật một tay chỉ lên, một tay chỉ xuống và bảo rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Vô lượng sinh tử, ư kim hỷ tận”. Ta bị trôi lăn trong ba cõi sáu đường đều do ngã chấp chi phối, và đến kiếp này là sinh thân cuối cùng của ta vậy.
Chia sẻ câu chuyện này

Minh họa: Bảo Huyên
Thiết kế: Gia Thuần

Share