Tôi và Trọng Phu đã về tới Vong Đô. Chúng tôi không vội về nhà mà ôm Cục Vàng đi dạo quanh đây đó. Ở Vong Đô không có khái niệm ngày và đêm, chỉ có những con đường không bao giờ chìm vào giấc ngủ và những con hẻm vắng bóng quỷ ma. Lửa ma trơi lơ lửng ở trên cao, chiếu ra thứ ánh sáng màu xanh lơ leo lắt nhưng dai dẳng, lẳng lặng soi sáng từng khoảng không gian nhỏ bé. Mấy cái hoa loa kèn núp ở trong góc cứ lặp đi lặp lại một bài hát. Nghe nói bài hát này của ca nương Hoài Hận đang nổi tiếng lắm, đi đâu cũng thấy phát, tôi nghe đến chán; thế nhưng không hiểu sao hôm nay bỗng có một chút thấm vào trong lòng.
– Anh Trọng Phu, – Tôi dừng lại bước chân, ngập ngừng không biết nên mở lời từ đâu để mô tả cảm xúc lúc này của mình. – tự nhiên sao mà… tôi thấy hoang mang quá.
Âm phủ rộng lớn bao la, kiến trúc độc đáo chẳng có bao nhiêu, bởi vậy mà chuyện lạc đường xảy ra nhiều không kể hết. Chuyện vốn bình thường như thế, vậy mà lần này tôi như kẻ ngủ mơ vừa bước hụt chân, trong lòng hẫng đến lạ. Tôi ngẩn ngơ nhìn một vòng, thu hết cảnh sắc xung quanh vào trong đáy mắt. Con phố này tôi chưa từng đi qua, vậy mà sao tôi thấy nó quen thuộc quá. Một bên là bờ tường sơn màu cam đất, mặt phía trên cắm đầy mảnh chai vỡ. Trên những mặt vỡ sắc bén ấy lóe lên vệt sáng màu lam tím, loang loáng đau mắt người. Tôi biết đấy chỉ là những mảnh thủy tinh đang phản chiếu ánh sáng, nhưng nguồn sáng đến từ nơi đâu?
Tôi nhìn sang bên còn lại của con phố, nơi đây cũng có một bờ tường, nhưng sơn màu xanh lam. Bên kia tường hẳn là có một giàn hoa tigon xinh đẹp. Tôi đoán như thế bởi vì có một vài dây nhỏ lang thang đi lạc trên bờ tường, thòng ra cả bên ngoài, mang theo mấy đóa hoa hồng tươi rũ xuống như muốn chạm vào nền đất. Vài đốm lửa ma trơi trôi lững lờ phía trên giàn hoa, chiếu sáng con đường. Tôi nhìn bờ tường phủ hoa, đột nhiên cảm thấy vui vẻ rồi bật cười. Dù là ma trơi thì chúng nó vẫn yêu thích hoa tươi hơn là mảnh chai vỡ.
Trọng Phu nghe thấy tôi gọi thì dừng lại. Anh xoay người nhìn tôi, giọng nói chất chứa quan tâm:
– Cô Đan Thanh sao thế?
Trọng Phu đứng đối diện với tôi, xoay lưng về phía bờ tường màu cam gắn đầy mảnh vỡ. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt của anh, cố ý tránh đi những góc cạnh sắc nhọn. Đôi mắt của Trọng Phu thật đẹp, lúc nào tôi cũng cảm thấy mình như chết chìm vào trong đó. Đôi mắt ấy trong veo như nước hồ đọng lại trên núi cao, mô tả lại những bông hoa tigon rất thật rất tình, hồng hồng chúm chím, nhỏ nhắn đáng yêu. Tôi bỗng nghĩ: “Ồ, thì ra mình cũng không khác đám lửa ma trơi là mấy, thích nhìn ngắm người đẹp hơn là những điều vỡ tan.”
– Anh nghĩ sao về thực và mơ? Nơi này là thật hay là mơ? Con đường này là sai hay đúng? Thứ mà tôi đang theo đuổi có thật là hoa tươi, hay chẳng qua chỉ là… ảo ảnh núp bóng trong những mảnh vỡ của thủy tinh?
Tôi nhìn thẳng con đường ở phía trước; có lẽ trên dương gian bóng đã xế tà, cho nên dưới Âm phủ cũng bắt đầu mịt mờ sương khói. Bức màn sương mờ ảo dần dần từ nền đất dâng lên khiến cho tầm nhìn của mọi người bị thu hẹp chỉ còn lại một quãng ngắn. Tôi khua tay đánh tan lớp sương, tiếp tục nói:
– Có khi nào một ngày kia, tôi thức dậy và phát hiện ra mình vẫn chỉ mới mười bảy tuổi, bật cười vì một giấc mơ vớ vẩn, sau đó vác cuốc ra ruộng trong tiếng gà báo sớm hay không?
Và tất cả đều là ảo mộng; nơi này, con đường này, Cục Vàng, Trọng Phu, và cả chính tôi đây đều là sản phẩm của một giấc mơ. Tôi lắc đầu, tựa như muốn đánh văng những suy nghĩ đó ra khỏi trí óc của mình. Rõ ràng là tôi không thích điều đó, thế nhưng không hiểu vì sao chúng cứ nhằm vào tư tưởng của tôi mà kéo quân tiến vào ồ ạt. Cục Vàng lần này không có xen vào câu chuyện của tôi, thằng bé thẫn thờ nhìn ngắm những đóa hoa tigon, say mê quên cả việc bay lơ lửng. Trọng Phu phải cúi xuống vớt cá nhỏ lên, ôm gọn vào lòng, bàn tay nhẹ nhàng vuốt ve làn da nham nhám của nó.
– Cô Đan Thanh này. – Trọng Phu cất tiếng hỏi, giọng đều đều. – Cô nghĩ sao về việc làm ma?
– Khá tốt. Cũng ổn. Tôi thấy vui. – Tôi không rõ lắm vì sao Trọng Phu hỏi mình điều đấy, nhưng tôi vẫn vui lòng cho anh một đáp án trung thực và khẳng định.
– Như vậy, mục đích sống của cô Đan Thanh vẫn còn chứ? Câu hỏi này có chút mạo phạm, cô Đan Thanh có thể không trả lời.
Trọng Phu cúi đầu tỏ vẻ xin lỗi, tôi cuống quýt dùng tay chống đầu anh lên.
– Không có gì, không mạo phạm đâu! Anh đừng nói như thế tôi ngại lắm! Cái này nói ra cũng đâu có sao. – Tôi chớp mắt. – Hồi còn sống, mục đích sống của tôi thay đổi liên tục á.
– Tôi nguyện được nghe.
Trọng Phu khẽ cười, tiếng cười rất nhẹ, vuốt qua lòng tôi như gió thổi trưa hè.
– Hồi còn nhỏ xíu thì ước mơ có nhiều tiền, có đồ chơi, có thức ăn ngon. Lớn lên rồi mới thấy sống như vậy thì phí hoài quá, cho nên tôi đổi điều ước, ước đất nước có được hòa bình, vậy là tôi học tập và đấu tranh để tìm cách giành giật lại quê hương của mình.
– Vậy…
– Đừng ngập ngừng, tôi hiểu anh Trọng Phu muốn hỏi cái gì. – Tôi cười híp mắt, ngại ngùng gãi má. – Chết rồi, thành ma rồi mà còn giữ khư khư cái gọi là mục đích sống thì hơi kỳ kỳ, cho nên tôi đổi lại, gọi là mục đích tồn tại đi ha. Tôi tồn tại vì muốn góp một phần công sức cho mảnh đất này. Mà tôi lại chẳng biết làm gì ngoài trồng lúa, cho nên tôi xung phong đi làm ruộng, cày cấy ra thật nhiều lương thực. Tôi hy vọng mọi ma quỷ đều có đủ cơm ăn, không bao giờ bị đói nữa.
– Cô Đan Thanh có vẻ rất thích Âm phủ?
– Ừa, tôi thích nơi này. Tuy rằng có đôi khi tôi bị ban quản lý bóc lột sức lao động, nhưng mà, ừm, họ có thể xem như là có lý do chính đáng. Một người vì mọi người, cái này tôi hiểu mà. Còn lại thì đều tốt.
Khóe miệng của Trọng Phu cong lên, vẽ ra một nụ cười tỏa nắng, sáng bừng che lấp cả ánh sáng của những đốm lửa ma trơi vốn đang trôi nổi lập lòe trên bờ tường màu xanh lam. Anh sải bước tiến về phía trước, không quên quay đầu ý bảo tôi theo cùng. Sương mờ gần như che phủ mọi thứ xung quanh, tầm nhìn bình thường bị giới hạn lại trong vòng bán kính ba thước. Trọng Phu bước đi vững vàng, đợi đến khi tôi đã đuổi kịp cùng bước song song, anh mới nâng bàn tay phải lên ngang vai, búng tay tạo một tiếng “tách” giòn tan.