Một trong những hình thức tiêu khiển phổ biến bậc nhất của người Việt xưa là cờ bạc vào lúc nông nhàn. Các lễ hội mùa Xuân thường kéo dài không chỉ hàng tuần mà có khi lên đến hàng tháng, tạo điều kiện để mọi người ăn chơi, tụ tập.
Những món cờ bạc thịnh hành trong xã hội xưa có Tài bán, Tổ tôm, Chắn can, Tam cúc, Xóc đĩa, Chẵn lẻ, Quy đất, Quay thò lò, Đánh đáo đĩa, Đánh ba que, hốt lú,… Mặc cho các quy định của làng xã cấm việc đánh bạc, cũng như lên án hành động này, hiệu quả dường như không là mấy. Thế nên dần dà trong một năm vào những thời gian nhất định, việc đánh bạc dường như được “làm ngơ” cho dân làng.
Tổ Tôm - Thú vui "nhã"
“Nhân sinh quý thích chí, Cuộc ăn chơi chi hơn thú tụ tam”,
Tên gọi Tổ Tôm xuất phát từ việc đọc chệch ra chữ Tụ Tam nghĩa là “hội tụ của ba loại hàng” bao gồm Văn, Vạn và Sách.
Trong các ngày lễ, Tết, Tổ Tôm thường được nam giới và người già chơi vì có luật chơi phức tạp, nhiều nước đi biến hoá, thanh niên và phụ nữ thời xưa thường ít chơi. Tuy nhiên, bài Tổ Tôm không phổ biến và bình dân bằng trò chơi Tam Cúc. Do cách chơi và luật chơi của Tổ Tôm khá khó và rắc rối nên người xưa thường rất đề cao trò Tổ Tôm, nó thể hiện trình độ và cái oai phong của bậc quân tử.
“Làm trai biết đánh Tổ Tôm Uống chè mạn hảo xem nôm Thuý Kiều”
Bài Tổ Tôm có 120 quân gồm có 3 hàng Vạn (萬), Văn (文), Sách (索). Các hàng quân này được viết bằng chữ Nho và cách nhận biết 3 hàng quân này theo câu “Vạn vuông, Văn chéo, Sách loằng ngoằng”, bên phải các quân bài có chữ số từ Nhất đến Cửu. Cùng ba loại quân đặc biệt: Thang Thang, Lão và Chi Chi. Mặc dù các quân bài đều có hình minh họa, có thể ghi nhớ bằng hình nếu như không thuộc được hết chữ Nho. Bài Tổ Tôm cũng được làm bằng bìa, mặt sau giống hệt nhau để tránh lộ bài.
Chính sự phức tạp trong cách chơi và luật lệ đã dẫn đến sự ra đời một phiên bản đơn giản hơn. Đó chính là nguồn gốc bài Chắn – trò chơi dân gian rất được ưa chuộng này.
Tổ tôm – nền tảng của bài Chắn
Một bộ bài Chắn bao gồm 100 cây được rút ra từ 120 cây của bộ Tổ Tôm (bỏ đi 20 cây là nhất văn, nhất vạn, nhất sách, lão, thang thang). Ngoài 4 cây chi chi, 96 cây còn lại đều có một nguyên tắc để gọi và nhận mặt quân là tên quân bài được hợp thành từ phần số (từ 2 đến 9 là nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu) và phần chữ (bao gồm văn, vạn, sách). Trong đó, phía bên phải là phần số còn bên trái quân bài là phần chữ.
(Hình minh họa)
Việc nhớ 100 quân bài trong bộ bài Chắn không phải là một việc đơn giản, nó khá rắc rối đòi hỏi phải có thời gian.
Đặt trưng văn hóa qua trò chơi bài Chắn
Không chỉ dừng lại ở một trò chơi, bài Chắn còn mang đậm dấu ấn văn hóa của từng cộng đồng. Điển hình, người Mường khi tiếp nhận bài Chắn đã tạo nên những câu chuyện dân gian thú vị để giải thích và ghi nhớ các quân bài. Sau đây là một ví dụ điển hình::
Các cụ ngày trước đánh chắn thường gọi quân chắn này là Dương Thả.
Chuyện kể rằng ông Thả đi toọc (săn ngày theo đội) cầm súng đứng chờ ở các tạng cò (lối các con thú bị xua đuổi chạy ra). Đang đứng chờ thì thấy một “con gấu” đang leo cây để lấy tổ ong bèn giơ súng nhắm bắn, dè đâu đấy là ông X, người chổ cò bị trúng đạn rơi từ cao xuống mà chết.
Phát hiện ra đã bắn nhầm, ông Thả chết pát (lặng người đi) ngồi phịch xuống như hình quân bài. Vậy nên các ông chơi Chắn mới gọi quân Chắn này là…Ông Thả.
Bài Chắn không chỉ là một trò chơi mà còn là sự phản ánh tinh thần sáng tạo và khả năng thích nghi của người Việt. Từ việc tiếp thu nét đẹp của Tổ Tôm, bài Chắn đã trở thành một trò chơi quen thuộc, gần gũi, phù hợp hơn với mọi lứa tuổi người Việt và có thời kỳ đã từng phổ biến đến mức “phép vua thua lệ làng” được dùng để mô tả khi nhắc về thú vui này.