Đọc Tam quốc diễn nghĩa, không ai có thể bỏ qua sự kiện Xích Bích – trận thủy chiến hỏa công lớn nhất trong thế cuộc Ngô Thục Ngụy tranh hùng. Vâng, đây là một chiến dịch quân sự thuộc vào hàng hào hùng, oanh liệt nhất trong lịch sử Trung Hoa, diễn ra trong năm Kiến An thứ 13 thời Đông Hán, tức năm 208 theo Tây lịch.
Trải ngót 2 thiên niên kỷ, đã có không ít thi nhân hạ bút làm thơ về trận Xích Bích, trong đó có những nhân vật tiếng tăm như Tô Đông Pha (với 2 tác phẩm Tiền Xích Bích phú và Hậu Xích Bích phú), hay Tào Tuyết Cần (tác giả Hồng lâu mộng) với bài Xích Bích hoài cổ… Và theo đánh giá của nhiều chuyên gia, bài thơ ngắn gọn nhưng ấn tượng sâu sắc nhất là bài Xích Bích hoài cổ của Đỗ Mục, một nhà thơ lớn thời Vãn Đường.
Nguyên bản bài thơ Xích Bích hoài cổ của Đỗ Mục:
赤壁懷古
折戟沉沙鐵未銷,
自將磨洗認前朝。
東風不與周郎便,
銅雀春深鎖二喬。
XÍCH BÍCH HOÀI CỔ
Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,
Tự tương ma tẩy nhận tiền triều.
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều.
Dịch nghĩa: Mũi kích gãy nằm vùi trong cát, sắt chưa mòn hết, Tự tay mài kỹ liền nhận thấy dấu vết triều đại trước. Nếu Chu Du không được gió đông giúp vì, Thì đài Đồng Tước đã khóa chặt tuổi xuân hai nàng Kiều.
Đỗ Mục (803 – 852) sáng tác bài thơ này ở thời điểm trận Xích Bích đã diễn ta trước đó 600 năm.
Không phải tác phẩm đồ sộ, hoành tráng, Xích Bích hoài cổ của Đỗ Mục chỉ là bài thất ngôn tứ tuyệt, hay còn gọi lối thơ “4 câu 3 vần”, mang âm hưởng bùi ngùi, phảng phất chất hoài cổ pha nỗi buồn man mác. Cả 4 câu (khai, thừa, chuyển, hợp – tương đương “đề, thực, luận, kết” trong thể thất ngôn bát cú) đều không có gì quá đặc sắc, nhưng điều quan trọng là câu kết của bài thơ này 1.000 năm sau đã được một đại thi hào vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo đến diệu kỳ trong kiệt tác vô đối của lịch sử thi ca nhân loại. Ai mê Kiều, đọc Kiều, hẳn khó mà quên được câu thơ nói về tâm tư của chàng Kim Trọng khi lần đầu gặp mặt 2 chị em gái nhà họ Vương trong buổi chơi lễ Thanh mỉnh năm nọ: “Trộm nghe thơm nức hương lân/ Một đền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều”.
Trên khía cạnh khác, chúng ta có thể liên tưởng chuỗi sự kiện này như một sự “nối điêu” tuyệt đẹp các điển cố lịch sử – văn học. “Nhị kiều” vốn chỉ là dùng để chỉ 2 cây cầu trên cao nối 3 tòa tháp của đài Đồng Tước (chim sẻ đồng) trong bài phú của Tào Thực ngợi ca công trình kiến trúc đặc sắc của cha mình là Tào Tháo. Theo Tam quốc diễn nghĩa, một đêm Tào Tháo nằm chiêm bao thấy sét đánh bên ngoài thành Nghiệp Quận. Hôm sau cho quân lính đào chỗ ấy lên tìm được con chim sẻ bằng đồng, Tháo bèn cho xây 1 tòa lâu đài ở đó để dưỡng già về sau.
Sau đó không lâu, Khổng Minh Gia Cát Lượng khi sang Đông Ngô du thuyết thì sửa 2 chữ “nhị kiều” vốn là “2 cây cầu” thành “2 nàng Kiều”, nói rằng Tào Tháo xây đài Đồng Tước với mục đích sang Đông Ngô bắt bằng được 2 nàng Kiều là Đại Kiều vợ Tôn Sách, Tiểu Kiều vợ Chu Du (2 mỹ nhân nức tiếng đương thời) về giam trong lâu đài này nhằm hưởng lạc tuổi già. Khổng Minh làm như thế chính là để kích Chu Du điên lên mà kháng Tào triệt để.
Trong bài thơ của mình, Đỗ Mục phát triển cái tứ “2 nàng Kiều chắc chắn sẽ bị tào Tháo giam hãm trọn đời trong đài Đồng Tước (để thỏa mãn nhục dục) nếu không có gió Đông giúp Chu Du sử dụng thành công chiến thuật hỏa công”.
Nhưng đến Nguyễn Du thì điển tích ấy mới được phát huy tột đỉnh khi được lồng vào trong tâm tư của Kim Trọng, một chàng trai mới lớn si tình.
“Trộm nghe thơm nức hương lân Một đền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều Nước non cách mấy buồng thêu Mà lòng trộm nhớ thầm yêu chốc mòng“
[Xích Bích là một khúc sông trên Trường Giang thuộc tỉnh Hồ Bắc. Theo sách Tam Quốc diễn nghĩa, nguyên súy Đông Ngô là Chu Du nhờ có Gia Cát Lượng cầu gió đông nổi lên để dùng hoả công đốt cháy các chiến thuyền của quân Ngụy].
Đỗ Mục 杜牧 (803-853) nổi tiếng có văn tài từ nhỏ. Năm 828 đỗ tiến sĩ, lại đỗ luôn khoa chế sách Hiền lương phương chính, được bổ chức hiệu thư lang ở Sùng văn quán, rồi ra làm đoàn luyện tuần phủ tại Giang Tây, quan lộ chẳng mấy hanh thông.
Đỗ Mục có ý chí khôi phục thịnh thế của nhà Đường nên chú tâm nghiên cứu các vấn đề kinh tế, quân sự, viết những bài chính luận bàn về trị loạn, thủ chiến, chú giải cả bộ binh thư Tôn Vũ. Trong sinh hoạt ông phóng túng tự do, không câu nệ tiểu tiết, coi thường lễ giáo. Về văn học, ông có những kiến giải tiến bộ, “lấy ý làm chủ, lấy khí làm phụ, lấy từ ngữ chương cú làm binh vệ” (Đáp Trang Sung thư), làm văn vì sự việc chứ chẳng phải “không ốm mà rên” (vô bệnh thân ngâm). Ông cố gắng đem chủ trương ấy vào trong sáng tác nên có ý nghĩa hiện thực khá mạnh, khả dĩ nối tiếp dư phong Bạch Cư Dị.
Đỗ Mục là nhà thơ được yêu thích, kính trọng thời Vãn Đường do vậy, người đương thời gọi ông là “Tiểu Đỗ” (Đỗ Phủ là “Lão Đỗ”). Ngoài ra, vì ông có tiếng ngang với Lý Thương Ẩn, nên người đời gọi hai ông là “Tiểu Lý-Đỗ”, để phân biệt với “Đại Lý-Đỗ” (tức Lý Bạch và Đỗ Phủ) ở thời Thịnh Đường.