Việt Nam kỹ nghệ: Nghề pháo cổ truyền

Tác giả Long Tự
Việt Nam kỹ nghệ: Nghề pháo cổ truyền
nghề pháo cổ truyền

Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ,

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh…

Đã từng có một thời tiếng pháo giao thừa là một phần không thể thiếu của không khí ngày Tết. Trải qua hơn 30 năm “vật đổi sao dời”, nghề làm pháo cổ truyền của người Việt đến nay đã không còn nữa. 

Nguồn gốc và khái niệm

nghề pháo cổ truyền

Âm vang của tràng pháo không biết đã xuất hiện từ bao giờ. Nhưng đã từng có một thuở, nó là một phần không thể thiếu trong không khí Tết của người Việt. Đối với không ít người, hình ảnh dây pháo đỏ xen lẫn cùng những tiếng nổ ram ran đến chát tai đã từng là một phần không thể thiếu của ký ức tuổi thơ, tuổi trẻ và tuổi sung sức của cuộc đời. 

Pháo nói riêng và nghề làm pháo nói chung vốn có xuất phát lâu đời từ Trung Quốc. Dấu vết của kỹ thuật chế tạo thuốc súng đã xuất hiện trên một số ghi chép từ thời Hán. Tuy nhiên phải đến tận thế kỷ thứ 7 – 8, kỹ thuật này mới thật sự hoàn thiện. Tương truyền, vào thời Tùy có một người đàn ông tinh thông y thuật tên là Tôn Tư Mạc (孙思邈). Trong một lần luyện đan dược ông ta đã vô tình tạo ra một hỗn hợp gây nổ lò luyện. Hỗn hợp đấy về sau chính là thuốc súng và công thức của nó được ghi lại trong một quyển sách có tên là Đan kinh (丹经).

Từ hỗn hợp thuốc súng ban đầu, người Trung Hoa đã biến đổi chúng và ứng dụng vào việc sản xuất nhiều loại sản phẩm. Pháo là một trong những sản phẩm trên. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, kỹ thuật chế tạo pháo vẫn còn rất sơ khai và cũng không phổ biến trong xã hội. Nguyên bản pháo đầu tiên được cho là phát minh bởi Lý Điền (李畋), một lương y đầu thời Đường. Ông đã nghiên cứu công thức thuốc súng trong sách Đan kinh và đã cho tiến hành nhồi thuốc súng vào trong ống tre rồi đốt lên. Ống tre sau đó phát nổ và tạo ra tiếng vang lớn kèm hơi khói dày đặc, đó chính là tiền đề cho kỹ thuật chế pháo về sau.

nghề pháo cổ truyền

Dưới sự phát triển không ngừng của kỹ thuật, đến khoảng giữa thời Đường, người Trung Hoa bằng kỹ thuật làm giấy và in ấn phát triển đã dần thay thế các ống pháo tre bằng các lớp giấy cuộn. Những nhà quyền quý thậm chí còn dùng cả lụa quý để đi quấn pháo. Với kỹ thuật mới này, pháo làm ra có trọng lượng rất nhẹ, dễ vận chuyển, nhưng tiếng nổ rất lớn. Sang đến thời Tống, các thợ thủ công đã bắt đầu kết pháo thành các tràng để đốt. Hình ảnh tràng pháo bắt đầu xuất hiện từ đây.

Du nhập và ảnh hưởng

nghề pháo cổ truyền

Pháo đã được phát minh và sử dụng từ thời Đường nhưng chúng không được dùng để giải trí. Tương truyền, khi Lý Điền phát minh ra pháo, xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ trải qua nhiều đợt thiên tai, dịch bệnh. Lý Điền đã nghĩ ra phương pháp đốt pháo để xua đuổi tà ma, chướng khí. Phương pháp này trùng hợp thay đã “khiến” dịch bệnh và thiên tai ở nhiều nơi được kiểm soát. Người dân từ đó về sau bắt đầu đốt pháo để xua đuổi tà ma, lâu dần trở thành một tập tục trong các dịp lễ lớn nhằm xua đuổi những điều không may.

Kỹ nghệ làm pháo bắt đầu có sự phát triển vượt bậc vào thời Tống khi có sự đột phá trong công nghệ sản xuất giấy. Pháo được sản xuất ra với số lượng lớn và bắt đầu phổ biến trong toàn dân. Bên cạnh đó, do áp lực từ chiến tranh nên người Tống cũng bắt đầu tỏ ra nghiêm túc trong việc nghiên cứu thuốc súng. Kỹ thuật trộn thuốc súng được cải tiến, cùng với đó là những đột phá trong công nghệ quốc phòng đã cho ra đời các biến thể pháo khác nhau, nổi bật trong số đó là pháo hoa và pháo thăng thiên.

nghề pháo cổ truyền

Đại Việt trong thời kỳ Lý – Trần được ghi nhận là đã biết sử dụng thuốc súng. Pháo và nghề làm pháo có lẽ cũng đã được biết tới trong thời gian này. Tuy nhiên, hầu hết những ghi chép về chúng đều là những dấu tích mơ hồ, chưa thể khảo sát chuyên sâu được. 

Kỹ nghệ làm pháo nói riêng và chế tạo thuốc súng nói chung chỉ thực sự có dấu ấn từ khi nhà Tống vong quốc trở đi. Theo đó, khi nhà Nguyên chinh phạt Trung Quốc, có một lượng lớn cư dân không thần phục tân triều đã đồng loạt di cư đến các nước xung quanh. Trong đó, có một bộ phận lưu dân người Tống tại vùng Lĩnh Nam đã di cư đến Đại Việt dưới sự bảo trợ của nhà Trần. Có lẽ, trên hành trình lưu vong ấy, đã có không ít những thợ thủ công mang theo kỹ thuật làm pháo và văn hóa đốt pháo du nhập mạnh vào nước ta. Cũng từ thời điểm này, kỹ nghệ chế tác hỏa khí nước ta bắt đầu có sự phát triển vượt bậc mà bằng chứng chính là những thành tựu quốc phòng vào thời Trần – Hồ

Trong quá trình tiếp xúc và tiếp biến các giá trị văn hóa, người Việt xưa cũng đã học theo tập tục đốt pháo vào các dịp lễ Tết từ chính người Hoa. Đốt pháo và làm pháo vì thế đã trở thành một nét văn hóa đặc sắc của người Việt xưa.

Phát triển và suy tàn

nghề pháo cổ truyền

“Thừa tiền mua pháo đốt chơi,

Pháo nổ lên trời, tiền vứt xuống sông….”

Văn hóa đốt pháo du nhập vào Việt Nam và dần trở thành một văn hóa phẩm thiết yếu trong đời sống. Không rõ mức độ người Việt trong thời đại Lý, Trần, Lê tiêu thụ pháo thế nào và có hình thành những làng nghề làm pháo hay không. Nhưng vào khoảng đầu thế kỷ 20 văn hóa đốt pháo của người Việt đã không thua gì người Hoa. 

Pháo xuất hiện trong hầu hết các dịp vui như cưới hỏi, tân gia và đặc biệt là ngày Tết. Theo báo cáo từ một viên tri huyện tại Hải Hậu (Nam Định) năm 1914 thì người Việt thường mua pháo của người Hoa, số lượng mỗi năm lên đến hàng triệu đồng Đông Dương. Nhu cầu thị trường lớn như vậy nhưng hầu hết các cơ sở sản xuất pháo trong nước bấy giờ đều là sản nghiệp của người Hoa. Thời ấy, chỉ riêng tại Hà Nội đã có hơn 140 cơ sở buôn bán pháo, tập trung chủ yếu ở khu vực phố cổ và đa số thuộc sở hữu của người Hoa. Điều này dẫn tới việc nhiều người Việt bắt đầu suy tính đến chuyện tự sản xuất lấy pháo để phá thế độc quyền. 

Trần Trọng Kim cùng đội ngũ khi tiến hành biên soạn sách Cách trí giáo khoa thư lớp sơ đẳng vào năm 1928 đã từng đưa ra nhận định rằng: 

“[…]Người Việt Nam đốt pháo nhiều lắm, nhưng xưa nay pháo vẫn mua ở Tàu sang. Nếu ta làm lấy được mà đốt thì thực là một mối lợi to […]”

Nắm bắt nhu cầu xã hội, một bộ phận không nhỏ người Việt bắt đầu bắt tay vào sản xuất pháo. Nghề làm pháo nở rộ khắp nơi, đặc biệt là ở Bắc Kỳ vào đầu thế kỷ 20. Hàng loạt cơ sở, làng nghề chế biến, sản xuất pháo mọc lên trên địa bàn các tỉnh như Hưng Yên, Nam Định, Bắc Ninh và Hà Nội. Nhiều làng nghề làm pháo nổi tiếng cũng ra đời. Trong đó vang danh nhất là làng pháo Bình Đà ở Thanh Oai, Hà Nội. Để nói về kỹ nghệ làm pháo trứ danh của Bình Đà, dân gian lúc bấy giờ có lan truyền câu hát “Nhất pháo Bình Đà, Nhất gà Đông Tảo”, đủ để nói lên chất lượng pháo của làng này. 

nghề pháo cổ truyền
nghề pháo cổ truyền

Nghề pháo phát triển là thế nhưng ai cũng biết rằng đây là một kỹ nghệ đầy rủi ro. Phương pháp làm pháo cũng từng được Trần Trọng Kim đề cập đến trong sách Cách trí giáo khoa thư lớp sơ đẳng, theo đó:

“Làm pháo phải dùng hai thứ thuốc: một thứ để làm ngòi và một thứ để nhồi (cuốn) vào pháo. Hai thứ thuốc ấy cũng làm bằng diêm sinh, than và lưu hoàng trộn lẫn với nhau, chỉ khác cân lạng mà thôi. Dùng lưu hoàng làm thuốc pháo thì trước phải tán nhỏ ra.

Than dùng làm thuốc pháo thì người Khách dùng gỗ thông (sinh mộc hay là sam mộc). Ở Nam Kỳ, người ta đã thử dùng thân gỗ gạo và gỗ xoan thì làm cũng được.

Nghề làm pháo cũng lắm công việc: như là cuộn giấy, nhồi đất, nhồi thuốc, thắt thành cái pháo, giùi lỗ, tra ngòi, tết lại thành tràng, phong lại từng bánh…”

Phương pháp làm pháo này thực chất rất nguy hiểm. Các tài liệu báo chí trong suốt thế kỷ 20 đã ghi nhận không ít các trường hợp người sản xuất lẫn tiêu thụ pháo gặp tai nạn trong khi thao tác với chất nổ. Bởi để làm ra tiếng pháo lớn, vang và nhiều khói, người làm pháo phải nghiên cứu điều chỉnh liều lượng thành phần của hỗn hợp pháo. Đồng thời, nghiên cứu phương pháp quấn pháo để làm sao có thể nhồi thuốc pháo có hiệu quả tối đa. Những công việc này đều là những việc nguy hiểm và dễ xảy ra tai nạn. Có không ít người đã mang thương tật suốt đời hoặc thậm chí mất mạng trong quá trình chế pháo. Kỹ nghệ chế pháo và đốt pháo vì thế như một con dao hai lưỡi.  

Nghề làm pháo phát triển mạnh tại Việt Nam trong thế kỷ 20, từ sân chơi độc quyền của người Hoa, lần lượt người Việt, người Pháp vì mối lợi lớn mà nhảy vào khai thác. Sự phát triển này kéo dài đến tận sau khi Cách mạng tháng Tám thắng lợi và chỉ kết thúc vào giữa những năm 90.

Suy tàn

nghề pháo cổ truyền

Đốt pháo là một tập tục tốt đẹp của người xưa nhằm xua đuổi những tai ương và sự không may mắn. Tuy vậy, bản thần truyền thống này cũng mang theo nhiều hệ lụy. Thứ nhất, đó chính là sự thiếu an toàn trong chế tạo cũng như sử dụng. Pháo về bản chất là một loại chất nổ và loại chất nổ này có thể gây ra sát thương lớn. Những tai nạn liên quan đến pháo hầu như năm nào cũng xảy ra. Thứ hai, đó là sự lãng phí. Pháo thực chất vốn không phải là một loại tài sản và chỉ dùng để mua vui. Chuyện người dân bỏ ra một số tiền lớn hằng năm để chơi pháo là một sự hao tài tốn của mà không mang lại lợi ích thực tế. Vậy nên, nếu bỏ qua giá trị thực tế thì đốt pháo và nghề làm pháo mang lại nhiều mối nguy hại hơn là lợi ích. 

Đến giữa những năm 90, nhà nước Việt Nam đã bắt đầu ra lệnh cấm đốt pháo ở các nơi và đến cuối những năm 90 việc sản xuất và sử dụng pháo bị cấm triệt để. Những làng nghề sản xuất pháo trứ danh một thuở như Bình Đà cũng dần chìm vào dĩ vãng.

Ngày nay, nghề làm pháo và tục đốt pháo vẫn còn tồn tại ở Việt Nam. Nhưng đó là pháo hoa chứ không phải là pháo tràng như ngày trước. Hình ảnh tràng pháo đã chính thức cáo chúng khỏi đời sống người Việt Nam hiện đại. Có lẽ, hằng năm khi nhìn lên bầu trời để thưởng thức những màn pháo hoa đẹp mắt, có không ít người sẽ bồi hồi nhớ lại một thuở sung vầy bên tiếng pháo tràng năm xưa. Âm vang của tiếng pháo năm nào này chỉ còn phảng phất trong ký ức. Ký ức về dư vị của những cái Tết xưa….

nghề pháo cổ truyền
nghề pháo cổ truyền
nghề pháo cổ truyền
nghề pháo cổ truyền
Chia sẻ câu chuyện này

Thiết kế: Nhím

nghề pháo cổ truyền
Share