Vũ khí và trang bị binh lính nước ta thời kỳ đầu tự chủ – Kỳ 1

Tác giả Phach Ho Nguyen
Vũ khí và trang bị binh lính nước ta thời kỳ đầu tự chủ – Kỳ 1

Thời Đầu Tự Chủ là thuật ngữ mà tôi tạm đặt tên để chỉ giai đoạn từ năm 880 đến năm 1010, tính từ lúc đội quân cuối cùng của chính quyền đô hộ Trung Quốc rút khỏi nước ta, cho đến khi Lý Công Uẩn lên ngôi lập ra nhà Lý. Việc đặt ra một thuật ngữ chỉ toàn bộ các giai đoạn dưới các triều đại Khúc, Dương, Ngô, Đinh, Tiền Lê là cần thiết, do thông tin về thời đại này hiện rất sơ sài, và quan trọng hơn là do nhiều vấn đề xuất hiện xuyên suốt các giai đoạn trên, nên cần phải được nghiên cứu như một đặc điểm của thời đại lúc bấy giờ, thay vì chỉ ở một triều đại cụ thể. Vấn đề về vũ khí và trang bị của binh lính nước ta trong giai đoạn này là một ví dụ điển hình.

Vậy, quân đội người Việt thường trang bị các loại vũ khí gì? Đây là một nội dung khá ít tư liệu để tìm hiểu. Tuy nhiên, ít không phải là không có. Dưới đây là những thông tin ít ỏi từ sử liệu mà người viết có thể thu thập được.

A/ CÁC NGUỒN SỬ LIỆU:

Nếu kết hợp cả 3 bộ Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư của nước ta và Tống sử của Trung Quốc, thì thuỷ binh nói chung và chiến thuyền nói riêng là thứ được đề cập nhiều nhất, với tổng cộng 8 sự kiện. Cụ thể được liệt kê dưới đây:

a. Theo Đại Việt sử ký toàn thư:

Năm 938: Trong trận Bạch Đằng “(Ngô) Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ địch đuổi theo”.

Năm 965: Kể về sự kiện vua Ngô Xương Văn đi đánh dẹp nổi dậy mà tử trận như sau: “Vua đem quân đi đánh hai thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình, mới vào đến cõi, đỗ thuyền lên bộ đánh, bị phục binh tay nỏ bắn trúng chết”. Về sự kiện này, Sử Lược nói hơi khác: “Vương ngự trên thuyền lớn quan sát trận chiến bị tay cung nỏ núp bắn trúng mà chết.”.

Năm 979: Khi Đinh Điền, Nguyễn Bặc giao chiến với Lê Hoàn: “Điền, Bặc thua chạy, lại đem thuỷ quân ra đánh. Hoàn nhân gió phóng lửa, đốt chiến thuyền, chém Điền tại trận…”

Năm 982: Nước Chiêm Thành bắt giữ sứ giả của ta. Vua Lê Hoàn nghe tin nổi giận: “sai đóng chiến thuyền sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh…”

Năm 990: Vua Lê Hoàn tổ chức đón tiếp sứ Tống là Tống Cảo, với những chi tiết như “Vua sai…đem 9 chiến thuyền với 300 người đến Thái Bình quân (Liêm châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) để đón (sứ Tống)…Mùa thu, tháng 9 (sứ đoàn) đến trạm Nại Chính ở Trường Châu. Vua ra ngoài giao (ngoại vi đô thành) để đón. Bày thuỷ quânchiến cụ để khoe…”.

Năm 995:  Toàn Thư ghi nhận các quan lại nhà Tống ở biên giới cấp báo chiến thuyền của Giao Chỉ (nước ta) hơn trăm chiếc, xâm phạm trấn Như Hồng…”.

Năm 1001:  Kể về sự kiện vua Lê Hoàn đi đánh giặc Cử Long với nhiều tình tiết đáng chú ý, cụ thể như sau: “Vua thân đi đánh giặc Cử Long. Quân giặc thấy vua, giương cung nhắm bắn thì tên rơi, lại giương cung thì dây đứt, tự lấy làm sợ mà rút lui. Vua bèn đi thuyền vào Cùng Giang để đuổi. Giặc bày trận hai bên bờ chống lại, quan quân bị hãm ở [giữa] sông, vua cũ [nhà Đinh] là Vệ Vương [Đinh] Toàn trúng tên chết tại trận.”.

Nhắc đến sự kiện năm 1001, Đại Việt sử lược, một bộ sử khuyết danh, phỏng đoán viết vào thời Trần (thế kỷ 13 – 14) cho biết thêm một số chi tiết đáng chú ý về đoạn đầu cuộc giao tranh “Vua lại tiếp tục bắn, quân giặc sợ mà rút lui. Lúc bấy giờ vua ngự trên lâu thuyền tiến vào sông Cùng Giang để đuổi theo…”.

b. Sử Trung Quốc: Tống sử (biên soạn vào thế kỷ 14).

Cụ thể, khi kể về cuộc xâm lược của nhà Tống năm 981, nhắc đến trận thắng ban đầu ở sông Bạch Đằng, Tống Sử viết quân Tống “chém hơn ngàn thủ cấp (quân ta), bắt được hơn 200 chiến hạm cùng hàng vạn giáp trụ.”.

B/ NHỮNG CHI TIẾT ĐÁNG CHÚ Ý CÓ THỂ RÚT RA:

a. Tần suất xuất hiện dày đặc: 

Đây là điều đáng chú ý nhất, khi thuỷ chiến trong giai đoạn này được đề cập còn nhiều hơn cả bộ chiến. Nó cho thấy thuỷ chiến là một đề tài đặc biệt quan trọng của thời Đầu Tự Chủ (880-1010). Đây không phải là điều gì xa lạ với một quốc gia xem trận thuỷ chiến Bạch Đằng là biểu tượng chống ngoại xâm. Tuy nhiên, nó một lần nữa là lời khuyến cáo rằng, miêu tả về chiến trận ở nước ta thời phong kiến, tuyệt đối không thể phớt lờ thuỷ chiến. Tần suất tham gia của chiến thuyền nhiều đến mức nó gần như được xem là biểu tượng chiến tranh. Điển hình là sự kiện vua Lê Hoàn tuyên chiến với Champa năm 982 cũng được thể hiện bằng chi tiết “đóng chiến thuyền”.

b. Chủng loại chiến thuyền:

Theo các ghi chép tản mạn kể trên, chúng ta cũng biết chúng ta biết thời đại đó người Việt sử dụng ít nhất hai loại chiến thuyền là thuyền nhẹlâu thuyền. Cho đến nay, trừ hình ảnh trên cửu đỉnh thời Nguyễn ra, không thể xác định kiểu dáng lâu thuyền của nước ta trong các giai đoạn phong kiến trước đó trông như thế nào. Tuy nhiên, chúng ta có một số ghi chép về một loại thuyền tiêu chuẩn rất có khả năng chính là loại thuyền nhẹ được nhắc đến trong trận Bạch Đằng năm 938. Đó là loại thuyền được quan đô hộ Trương Chu cho đóng ở nước ta vào năm 808 – tức chỉ khoảng 70 năm trước giai đoạn Đầu Tự Chủ – để phòng chống giặc ngoài. Toàn Thư miêu tả sự kiện này cũng như kiểu dáng loại thuyền trên như sau:

“…đóng 300 chiếc thuyền dài, mỗi chiếc có 25 người chiến thủ, 23 tay chèo, thuyền chèo ngược xuôi, đi nhanh như gió.”

Sách An Nam chí lược của Lê Tắc đời Trần cũng ghi chép về sự kiện Trương Chu đóng thuyền, nhưng có thêm một số thông tin. Theo Lê Tắc, loại thuyền này gọi là mông đồng, mỗi thuyền có trang bị 2 cây nỏ bắn xe (nỏ lớn).

Mô hình tàu chiến "Mông đồng"
  • c. Cách thức sử dụng chiến thuyền:

Các sử liệu nêu trên còn cho chúng ta biết rằng, ngoài việc sử dụng để chiến đấu với tàu chiến địch, người thời đó còn sử dụng chiến thuyền theo ít nhất 4 cách khác nhau:

– Cách thứ nhất: dùng thuyền để nhử quân địch, như được thể hiện trong trận Bạch Đằng năm 938. 

– Cách thứ hai: Sử dụng lâu thuyền để thám thính, quan sát tình hình chiến sự trên đất liền. Điều này được Đại Việt Sử Lược mô tả trong sự kiện Ngô Xương Văn bị ám sát năm 965. Sự kiện này gián tiếp cho ta biết lâu thuyền thời đó có một độ cao tương đối, nên có thể thuận tiện sử dụng cho việc quan sát, nhưng cũng không quá cao, khiến người quan sát phải cho thuyền chèo vào gần bờ, tạo cơ hội tốt cho những kẻ ám sát. 

– Cách thứ ba: sử dụng lâu thuyền như những “tháp pháo”, bằng cách cho quân cung nỏ đứng trên lâu thuyền bắn vào đối phương. Cách này được thể hiện qua sự kiện năm 1001, khi Lê Hoàn cho quân trên lâu thuyền bắn vào kẻ địch ở trên bờ.

– Cách thức cuối cùng, cũng là cách được nhắc đến nhiều nhất: sử dụng thuyền để hành quân. Cách thức này được đề cập xuyên suốt lịch sử phong kiến Việt Nam nói chung, và sự kiện năm 965 của giai đoạn này nói riêng, qua chi tiết quân của Ngô Xương Văn “đỗ thuyền lên bộ đánh”. Ngoài ra, việc sử dụng thuyền để hành quân còn được đề cập gián tiếp qua hoạt động đào kênh, mà riêng thời đại này đã được nhắc đến qua ba sự kiện thời Tiền Lê như sau:

Năm 983: “Khi vua đi đánh Chiêm Thành, qua núi Đồng Cổ đến sông Bà Hòa, đường núi hiểm trở khó đi, người ngựa mỏi mệt, đường biển thì sóng to khó đi lại, bèn sai người đào kênh. Đến đây đào xong, thuyền bè đi lại đều được thuận tiện.”.

Năm 1003: “Vua đi Hoan Châu, vét kênh Đa Cái (cho Thông) thẳng đến Tư Củng trường ở Ám Châu.”.

Năm 1009: “Bọn Ngô đô đốc, Kiểu hành hiến dâng biểu xin đào kênh, đắp đường và dựng cột bia ở Ái Châu. Vua xuống chiếu cho lấy quân và dân ở châu ấy đào đắp…”.

d. Các chiến thuật được đương thời sử dụng để chống lại chiến thuyền:

Điều đáng chú ý thứ tư, là các sự kiện kể trên cũng đề cập đến ít nhất 4 cách thức chiến đấu chống lại chiến thuyền.

– Cách thứ nhất, thể hiện qua trận Bạch Đằng năm 938, là đóng cọc ở lòng sông, rồi dụ thuyền địch vào đó, nhân thuỷ triều rút, địch mắc cạn mà tiêu diệt.

– Cách thứ hai, thể hiện qua sự kiện Lê Hoàn đánh bại thuỷ quân của Đinh Điền, Nguyễn Bặc năm 979. Đó là sử dụng hướng gió để dùng kế hoả công, đốt thuyền địch. Khác với cách đầu tiên yêu cầu người sử dụng phải hiểu rõ đặc điểm thuỷ triều của con sông, cách thứ hai này yêu cầu việc nắm vững ngày giờ và hướng gió thì mới thực hiện được.

– Cách thứ ba, được ám chỉ trong chiến thắng của quân Tống trong giai đoạn đầu xâm lược nước ta, đó là xua quân xông qua thuyền địch, hòng tiêu diệt hết quân địch rồi cướp quyền điều khiển con thuyền. Cách thức này ắt hẳn rất phức tạp trong thực tế, nhưng đáng tiếc là chúng ta không có những ghi chép cụ thể hơn.

– Cách cuối cùng, là nhử thuyền địch vào ổ phục kích rồi sử dụng cung tên để tiêu diệt binh lính trên thuyền. Cách này được thể hiện qua sự kiện năm 1001, khi giặc Cử Long bày bộ binh 2 bên bờ, kẹp thuỷ quân của Lê Hoàn vào giữa rồi dùng mưa tên để tiêu diệt. Chi tiết Vệ Vương Đinh Toàn trúng tên chết cho thấy quân Tiền Lê trong trận này thiệt hại không ít, dù cuối cùng vẫn đánh lui được giặc.

  • e. Giáp trụ của thuỷ quân:

Điều đáng chú ý cuối cùng, tuy không quan trọng lắm, đó là chi tiết Tống Sử cho biết quân Tống đã chiếm được hàng vạn giáp trụ khi đánh bại thuỷ quân nhà Tiền Lê. Qua đó cho thấy, thuỷ quân nước ta thời đó cũng trang bị giáp trụ như bộ binh, tuy chưa rõ loại giáp trụ họ sử dụng có khác biệt gì về chất liệu hay mẫu mã.

Chia sẻ câu chuyện này

Thiết kế: Gia Thuần

Share