Vũ khí và trang bị binh lính nước ta thời kỳ đầu tự chủ – Kỳ 2

Tác giả Phach Ho Nguyen
Vũ khí và trang bị binh lính nước ta thời kỳ đầu tự chủ – Kỳ 2

Kết hợp Tống sửĐại Việt sử ký toàn thư, có thể thống kê được tổng cộng 4 sự kiện đề cập đến cung và nỏ. Cụ thể như sau:

Với Tống sử, đó là lời tường thuật của sứ giả Tống Cảo khi ông này đến thăm nước ta năm 990 dưới thời Tiền Lê. Theo ghi nhận của ông, cấm quân nhà Tiền Lê lúc đó có trang bị cung và nỏ.

Còn theo Đại Việt sử ký toàn thư, nỏ được nhắc đến 2 lần nữa, đó là sự kiện Ngô Xương Văn bị nỏ binh bắn chết vào năm 965 như đã nhắc ở phần trước, và sự kiện Đinh Bộ Lĩnh bắn con vào năm 951:

“Bấy giờ người động Hoa Lư là Đinh Bộ Lĩnh cậy núi khe hiểm cố, không chịu giữ chức phận làm tôi. Hai vương muốn cất quân đi đánh; Bộ Lĩnh sợ, sai con là Liễn vào triều làm con tin để ngăn chặn việc xuất quân. Liễn đến, hai vương trách tội [Bộ Lĩnh] không đến chầu, rồi bắt giữ Liễn đem theo đi đánh. Hơn một tháng, không đánh nổi, bèn treo Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Liễn. Bộ Lĩnh tức giận nói: “Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao?”. Liền sai hơn mười tay nỏ nhắm Liễn mà bắn”.

Về phần cung, được nhắc đến duy nhất 1 lần trong sự kiện Lê Hoàn đánh giặc Cử Long năm 1001, như đã đề cập ở phần trước. Trong sự kiện này, cung tên được miêu tả là được giặc Cử Long sử dụng để chiến đấu. Cũng sự kiện trên cho biết thuỷ quân Tiền Lê trong trận đó cũng sử dụng vũ khí tầm xa để bắn trả, nhưng không nói rõ đó là cung hay nỏ.

Như vậy, với 4 sự kiện đề cập, cung và nỏ đã nổi lên trở thành loại vũ khí cá nhân được nhắc đến nhiều nhất trong giai đoạn Đầu Tự Chủ (880-1010), qua đó cho thấy mức độ phổ biến của chúng trong quân đội đương thời. Trong 4 sự kiện nêu trên, ta có thể thấy nỏ được đề cập tổng cộng 3 lần, trong khi cung được đề cập tổng cộng hai lần. Điều này cũng cho thấy tần suất sử dụng 2 loại vũ khí này là gần tương đương nhau, nếu không muốn nói là sự phổ biến của nỏ còn nhỉnh hơn cả cung. Đó là chúng ta còn chưa tính đến thông tin mà Lê Tắc cung cấp (đã nhắc ở phần chiến thuyền), rằng loại thuyền nhẹ mông đồng được trang bị nỏ loại lớn.

Nỏ, thập niên 1960 - Văn hóa Montagnard; khu vực Tây Nguyên, Việt Nam

Điều đáng tiếc là, ngoài những thông tin ít ỏi vừa rút ra ở trên, chúng ta không được biết gì nhiều hơn về hình dáng, mẫu mã, cách chế tạo hoặc biên chế của cung và nỏ trong quân đội thời bấy giờ. Tuy nhiên, có một điểm khá lý thú. Đó là với sự kiện bắn con năm 951, cây nỏ đã trở thành loại vũ khí duy nhất được sử liệu xác nhận là gắn với quân đội nhà Đinh nói chung cũng như cá nhân Đinh Bộ Lĩnh nói riêng (dù ông không trực tiếp sử dụng nó trong sự kiện), thay vì gươm đao như các tranh vẽ trong văn hoá đại chúng ngày nay. 

Đáng tiếc là ngoài cung nỏ ra, những loại vũ khí cá nhân khác trong giai đoạn Đầu Tự Chủ (880-1010) được đề cập rất mù mờ. Tất cả những gì còn lại chỉ là những dòng báo cáo ngắn ngủi của sứ Tống Cảo vào năm 990, khi ông miêu tả trang bị của cấm quân Tiền Lê ở kinh đô Hoa Lư:

“Quân lính (của vua Lê Hoàn) có ba ngàn người, thảy đều thích lên trán mấy chữ “Thiên tử quân”, cấp lương thực thóc lúa hàng ngày, lệnh cho tự giã lấy mà ăn. Binh khí chỉ có cung nỏ, mộc bài (khiên), thoa thương (梭槍), giáo tre (竹槍-trúc thương), yếu ớt không thể dùng được.”

Đoạn văn ngắn ngủn chứa đầy khinh miệt này, bất hạnh thay, lại là dòng văn bản hiếm hoi miêu tả về trang bị, trang phục và đời sống của cấm binh thời Tiền Lê nói riêng, và quân đội nước ta thời Đầu Tự Chủ (880-1010) nói chung. Theo văn bản này, có thêm 2 loại vũ khí cá nhân được đề cập, là thoa thươnggiáo tre.

Giáo tre (nguyên văn: 竹槍-trúc thương), đơn giản là loại giáo có cán bằng tre. Phần mũi nhọn của giáo có thể là kim loại, hoặc đơn giản chỉ là một đầu tre được vạt nhọn. Có một số nghi vấn mà chúng ta có thể nêu ra, rằng loại cán tre mà Tống Cảo đề cập đã được xử lí để tăng sự cứng cáp hay chưa (với kỹ thuật hun khói mà đến nay nhân dân ta vẫn còn dùng)? Xét việc những cây giáo này được cấm binh – đội quân tinh nhuệ nhất nước ta lúc bấy giờ – sử dụng, chúng ta có quyền nghĩ đến khả năng đó. Việc Tống Cảo bỏ qua không miêu tả những chi tiết này, có lẽ một phần vì chính bản thân ông cũng không hiểu nhiều về những kiến thức xử lý thân tre, nên ông đã xem việc lấy tre làm cán giáo là biểu hiện của sự trang bị sơ sài cẩu thả?

Thoa thương (梭槍), dịch ra tiếng Việt là giáo thoi. Các văn bản Việt Nam khi dịch đoạn văn này, thường dịch cụm từ trên thành lao gỗ. Sách Võ bị chí (武備志) của Mao Nguyên Nghi (茅元儀) ở Trung Quốc đời Minh miêu tả loại vũ khí này như sau:

“梭槍長數尺,本出南方蠻獠用之,一手持旁牌,一手摽以擲人,數十步內中者皆踣。以其如梭之擲,故云梭槍,亦曰飛槍。”

Tạm dịch như sau:

“Thoa thương dài vài thước, vốn được những người man lão phương Nam (ám chỉ bao gồm nước ta) sử dụng, một tay cầm bàng bài (旁牌: một từ ám chỉ cái khiên), tay kia [cầm giáo] ném người, những người ở trong phạm vi vài chục bước đều (trúng giáo) ngã chết. Do ném như ném thoi, nên gọi là thoa thương (giáo thoi), còn được gọi là phi thương (giáo bay).”

Khiên gỗ Việt Nam

Như vậy, thoa thương đúng thật ra là thuật ngữ chỉ ngọn lao. Nhưng có một chi tiết đáng chú ý, là người Trung Quốc mặc định loại vũ khí này phải được trang bị cùng một cái khiên. Đây là điều các bản dịch tiếng Việt của chúng ta đến nay thường bỏ qua.

Một điều đáng chú ý, là dù Tống Cảo ghi nhận cấm quân Tiền Lê sử dụng nhiều loại vũ khí khác nhau, nhưng dường như họ thiên về trang bị vũ khí xạ chiến (cung, nỏ, lao) hơn là cận chiến. Như đã dẫn ở trên, giáo tre cho đến nay là món vũ khí cận chiến duy nhất được xác nhận là được người Việt giai đoạn này sử dụng. Lạ lùng ở chỗ, Tống Cảo không đề cập đến một thanh đao, thanh kiếm nào cả, dù chúng ta khá chắc chắn đây không phải là vũ khí xa lạ với người Việt giai đoạn này. Toàn bộ các sự kiện mà Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận trong giai đoạn này cũng không thấy nhắc trực tiếp đến đao kiếm, mà chỉ ám chỉ mơ hồ qua những cụm từ như “Nguyễn Bặc sai người bắt [Đỗ Thích] đem chém”, “chém [Đinh] Điền tại trận”,… Phải chăng, điều này là do tâm lí chuộng vũ khí xạ chiến đương thời? Hay là do người thời đó có xu hướng chuộng giáo như vũ khí phổ thông hơn là đao kiếm?

Sau cùng, là hình bóng của kỵ binh. Dù rất mờ nhạt, nó được thể hiện qua cuộc trò chuyện giữa Tống Cảo và vua Lê Hoàn. Cụ thể, khi nhận chiếu của nhà Tống, nhà vua: “…tự nói là năm gần đây giao chiến với giặc man, bị ngã ngựa gãy chân, nên nhận chiếu không bái lạy”. Cùng với sự kiện châu Vị Long cống ngựa trắng cho vua Lê Long Đĩnh, đây là hai chi tiết duy nhất về hình bóng kỵ binh thời này, dưới tư cách là vật cưỡi của vua chúa.

Chia sẻ câu chuyện này

Thiết kế: Gia Thuần

Share