Đáng tiếc là ngoài cung nỏ ra, những loại vũ khí cá nhân khác trong giai đoạn Đầu Tự Chủ (880-1010) được đề cập rất mù mờ. Tất cả những gì còn lại chỉ là những dòng báo cáo ngắn ngủi của sứ Tống Cảo vào năm 990, khi ông miêu tả trang bị của cấm quân Tiền Lê ở kinh đô Hoa Lư:
“Quân lính (của vua Lê Hoàn) có ba ngàn người, thảy đều thích lên trán mấy chữ “Thiên tử quân”, cấp lương thực thóc lúa hàng ngày, lệnh cho tự giã lấy mà ăn. Binh khí chỉ có cung nỏ, mộc bài (khiên), thoa thương (梭槍), giáo tre (竹槍-trúc thương), yếu ớt không thể dùng được.”
Đoạn văn ngắn ngủn chứa đầy khinh miệt này, bất hạnh thay, lại là dòng văn bản hiếm hoi miêu tả về trang bị, trang phục và đời sống của cấm binh thời Tiền Lê nói riêng, và quân đội nước ta thời Đầu Tự Chủ (880-1010) nói chung. Theo văn bản này, có thêm 2 loại vũ khí cá nhân được đề cập, là thoa thương và giáo tre.
Giáo tre (nguyên văn: 竹槍-trúc thương), đơn giản là loại giáo có cán bằng tre. Phần mũi nhọn của giáo có thể là kim loại, hoặc đơn giản chỉ là một đầu tre được vạt nhọn. Có một số nghi vấn mà chúng ta có thể nêu ra, rằng loại cán tre mà Tống Cảo đề cập đã được xử lí để tăng sự cứng cáp hay chưa (với kỹ thuật hun khói mà đến nay nhân dân ta vẫn còn dùng)? Xét việc những cây giáo này được cấm binh – đội quân tinh nhuệ nhất nước ta lúc bấy giờ – sử dụng, chúng ta có quyền nghĩ đến khả năng đó. Việc Tống Cảo bỏ qua không miêu tả những chi tiết này, có lẽ một phần vì chính bản thân ông cũng không hiểu nhiều về những kiến thức xử lý thân tre, nên ông đã xem việc lấy tre làm cán giáo là biểu hiện của sự trang bị sơ sài cẩu thả?
Thoa thương (梭槍), dịch ra tiếng Việt là giáo thoi. Các văn bản Việt Nam khi dịch đoạn văn này, thường dịch cụm từ trên thành lao gỗ. Sách Võ bị chí (武備志) của Mao Nguyên Nghi (茅元儀) ở Trung Quốc đời Minh miêu tả loại vũ khí này như sau:
“梭槍長數尺,本出南方蠻獠用之,一手持旁牌,一手摽以擲人,數十步內中者皆踣。以其如梭之擲,故云梭槍,亦曰飛槍。”
Tạm dịch như sau:
“Thoa thương dài vài thước, vốn được những người man lão phương Nam (ám chỉ bao gồm nước ta) sử dụng, một tay cầm bàng bài (旁牌: một từ ám chỉ cái khiên), tay kia [cầm giáo] ném người, những người ở trong phạm vi vài chục bước đều (trúng giáo) ngã chết. Do ném như ném thoi, nên gọi là thoa thương (giáo thoi), còn được gọi là phi thương (giáo bay).”