Bên cạnh vũ khí, các loại trang phục, giáp trụ cũng được đề cập khá nhiều trong giai đoạn này. Điều đáng tiếc là thông tin về chúng chỉ được ghi nhận từ lúc Đinh Bộ Lĩnh đã thống nhất đất nước về sau. Và những ghi nhận thường chỉ thiên về khẳng định sự tồn tại của chúng hơn là mô tả kiểu dáng, mẫu mã của chúng.
Qua miêu tả của Tống Cảo, như đã nói ở phần trên, quân đội trễ nhất là thời Tiền Lê đã sử dụng khiên khá đại trà (được Tống Cảo đề cập, ám chỉ 2 lần). Việc sử dụng khiên sẽ được nhắc đến khá nhiều lần nữa trong suốt giai đoạn Lý, Trần, Lê sơ,… về sau. Tuy nhiên, đây không phải là phạm vi mà bài viết này bàn đến.
Theo ghi chép của Tống sử về chiến thắng giai đoạn đầu của họ trong cuộc xâm lược năm 981, thuỷ quân nhà Đinh – Tiền Lê trang bị đến hàng vạn giáp trụ. Tuy nhiên, không còn thông tin về mẫu mã, kiểu dáng nào được lưu lại. Chúng ta chỉ có thể phỏng đoán rằng chúng có lẽ chịu một số ảnh hưởng nào đó từ giáp trụ giai đoạn thuộc Đường mới chấm dứt chưa lâu.
Mũ chiến, lạ lùng thay, lại là bộ phận giáp trụ duy nhất được các sử liệu về giai đoạn này miêu tả kỹ. Cụ thể, Toàn Thư khi viết về sự kiện năm 974 liên quan đến việc biên chế quân đội nhà Đinh, bèn nói thêm rằng binh lính thời đó:
“đầu đội mũ bình đính vuông bốn góc [loại mũ này làm bằng da, chóp phẳng, bố bên khâu liền, trên hẹp dưới rộng, quy chế này đến đời bản triều khởi nghĩa vẫn còn dùng, đời sau vẫn theo thế].”.
Theo ngữ cảnh của văn bản, có thể hiểu rằng loại mũ này được trang bị hàng loạt cho binh sĩ cả nước từ năm 974, nhưng cũng có thể hiểu rằng nó đã được chế tạo và sử dụng trước đó trong quân đội nhà Đinh ở một phạm vi hẹp hơn. Ngoài ra, theo lời của sử gia Ngô Sĩ Liên đời Lê sơ nói trên, thì loại mũ này sau đó đã trở thành mũ chiến truyền thống của người Việt suốt hơn 500 năm tiếp theo, cho đến tận thời Lê sơ. Nói cách khác, không chỉ riêng giai đoạn Đầu Tự Chủ (880-1010), mà miêu tả binh sĩ người Việt thời phong kiến Đinh-Lý-Trần-Lê sơ, tuyệt đối không được bỏ qua loại mũ này.
Ngoài ra, vào năm 1002, Toàn Thư cũng ghi nhận vua Lê Hoàn đã: “Xuống chiếu làm mấy nghìn mũ đâu mâu, ban cho sáu quân”. Đâu mâu (兠鍪) vốn là một từ để chỉ mũ chiến nói chung. Trong đó, trong chữ mâu (鍪) có chữ kim (金) ám chỉ được chế tác bằng vật liệu kim loại. Cho nên, mũ đâu mâu có thể hiểu là một loại mũ chiến bằng kim loại, khác với loại mũ tứ phương bình đính làm bằng da đã được đề cập vào năm 974. Tuy nhiên, ngoài thông tin đó ra, chúng ta không biết gì hơn về kiểu dáng của loại mũ này.