Từ Lục Vân Tiên đến tính trọng nghĩa của người miền Nam

Tác giả xnghiem
Từ Lục Vân Tiên đến tính trọng nghĩa của người miền Nam

Lục Vân Tiên, tác phẩm truyện thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, được viết bằng thể lục bát vào đầu thập niên 50 của thế kỷ 19, là một viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam. 

Lần đầu tiên, bản chữ Quốc ngữ của truyện được xuất bản chung với bản dịch tiếng Pháp do Abel des Michels thực hiện, mang tên Lục Vân Tiên ca diễn: les poèmes de l’Annam, phát hành tại Paris năm 1883.  

Truyện Lục Vân Tiên, hay thơ Lục Vân Tiên như cách người miền Nam thân quen gọi, không chỉ là một cuốn tiểu thuyết luân lý mà còn là bức tranh sống động về đạo làm người. Với tinh thần văn dĩ tải đạo, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm trong từng câu thơ hình ảnh những tấm gương xưa, nhằm khơi dậy nơi người đọc lòng trân quý cương thường, đạo nghĩa.  

Điều đặc biệt ở tác phẩm này, bên cạnh những tư tưởng cao đẹp quen thuộc, chính là nét chân phương, mộc mạc của tâm hồn người miền Nam. Trong đó, nổi bật nhất là tinh thần trọng nghĩa, một phẩm chất đẹp đẽ mà tác giả đã khéo léo thổi hồn vào từng dòng thơ, làm nên sự sống động và gần gũi đến lạ kỳ.

Theo Từ điển Hán Việt, học giả Thiều Chửu giải thích nghĩa là “định liệu sự vật hợp với lẽ phải, làm việc không có ý riêng của mình, lấy ân cố kết với nhau”. Theo định nghĩa đó, nền tảng của nghĩa có hai, một là lẽ phải, hai là cái ân mà mình đã chịu.

Khi du nhập đến Việt Nam, khái niệm nghĩa của Nho gia đã kết hợp với những đặc trưng trong tính cách của người Việt, nó gần gũi với chữ tình hơn cả. Nghĩa còn là “quan hệ tình cảm thủy chung, phù hợp với những quan điểm đạo đức nhất định

Với tính trọng âm ở Bắc bộ, con người ta đã quen với lối sống ổn định, con người ta đã biết nhau rất rõ và cũng có nhu cầu giúp đỡ lẫn nhau đã tạo nên tình trọng tình. Khi di chuyển vào Nam Bộ, là vùng đât mới, con người ở đây là con người từ tứ xứ đổ về không quen biết nhau. Nhưng vì là đất mới, nên con người ta càng cần phải yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Tính cộng đồng làng xã ở Bắc Bộ truyền thống trên cơ sở tình nghĩa đã chuyển thành tính cộng đồng xã hội. Chữ nghĩa đã được đặt lên hàng đầu trong cuộc sống của người dân nơi đây. 

Nếu thiên nhiên ở đây khắc nghiệt với con người thì thiên nhiên cũng hết lòng hậu đãi con người. Ở đây không có khí hậu quá khác biệt giữa các mùa, cũng không có những cơn lũ dữ dội như ở ngoài Bắc. Con người ở đây cũng không cần phải quá lo lắng về cái ăn. Thiên nhiên nơi đây ưu đãi con người đến mức mà học giả Nguyễn Hiến Lê đã ghi lại trong cuốn Bảy ngày ở Đồng Tháp Mười rằng “[…] phát vài công đất ở sau nhà, sạ một vài giạ lúa là có dư lúa ăn suốt năm. Cá nhiều tới nỗi con nít cầm một cây đinh ba nhỏ đi đâm một lúc về cũng được một xâu cá, đàn bà ngồi rửa chén thấy cá lội ngang thường chém được con cá lóc lớn bằng bắp chuối”. Bởi như thế, nên con người ở đây ít phải lo toan, có điều kiện để không đặt nặng vấn đề tài chính để mà sống với nhau chân thành, giản dị, hết lòng vì việc nghĩa. 

Tiêu chí để đánh giá tính trọng nghĩa trong quan hệ ứng xử với những người tuy không cùng huyết thống nhưng thân quen như mối quan hệ bạn bè, vợ chồng chính là tấm lòng chí cốt và chung thủy. Bởi đã kết duyên phu thê, kết tình huynh đệ thì tình nghĩa phải nồng đượm, không được phai nhạt. Một khi đã kết duyên, kết nghĩa thì họ vô cùng yêu thương nhau.

Tình bằng hữu giữa Lục Vân Tiên và Hớn Minh, Tử Trực không chỉ là bạn đồng môn mà còn là tình anh em đẹp đẽ. Khi Vân Tiên gặp Tử Trực trên đường lên kinh thi:

Cùng nhau tả chút tình hoài,
Năm ba chén rượu, một vài câu thơ.

Lời của Vân Tiên nói về việc trọng tình nghĩa hơn thứ khác:

Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
Khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi.
Công danh phú quí màng chi,
Cho bằng thong thả mặc khi vui lòng.

Quan niệm tình bạn được thể hiện rõ ràng, tình bạn chân thành là khi những người bạn đồng hành biết tin tưởng, chia sẻ niềm vui nỗi buồn với nhau, cùng nhau vượt qua khó khăn gian khổ. Tình bạn cao cả hơn cả, danh lợi vật chất chỉ là phù phiếm chỉ có “tình nghĩa anh em” mới có thể tồn tại lâu dài. Hạnh phúc và sự tự do sẽ mang lại cho con người một cuộc sống đầy ý nghĩa. 

Đối với Hớn Minh, Vân Tiên không chỉ là một người anh em kết nghĩa mà còn là một tri kỷ. Vân Tiên và Hớn Minh vừa có cùng chí lớn muốn giúp nước, giúp người mà giữa họ có mối quan hệ anh em, bạn bè rất đáng trân trọng. Nếu nói về tình bạn đẹp, chắc hẳn không thể không nhắc đến tình bạn cao đẹp giữa Vân Tiên – Hớn Minh, Vân Tiên – Vương Tử Trực.

Chữ nghĩa được thể hiện qua hành động biết ơn, cảm kích ông tiều đã cứu giúp Vân Tiên. Khi biết rằng ông tiều đã cứu lấy “bạn lành” của mình là Vân Tiên thì Hớn Minh đã rất đỗi biết ơn và đã ngay lập tức “quỳ gối lạy liền” và rằng “Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành”.

Với bạn bè, người Nam bộ luôn sẵn sàng, hết lòng giúp đỡ. Thậm chí khi gặp hoạn nạn thì người ta sẵn sàng coi rẻ sinh mạng của mình:

- Dấn mình vô chốn chông gai
Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân
- Lao xao sóng bủa dưới hùm
Thò tay vớt bạn chết chùm cũng ưng

Họ vô cùng căm ghét sự phản bội:

Đứa nào được Tấn quên Tần
Xuống sông sấu ních, lên rừng cọp tha

Khi biết tin Lục Vân Tiên mất, Kiều Nguyệt Nga đã rất đau buồn. Chứng kiến điều này Kiều công đã kiếm lời khuyên giải, an ủi nàng:

Người đời như bóng phù du,
Sớm còn tối mất, công phu lỡ làng.
Cũng chưa đồng tịch đồng sàng,
Cũng chưa nên nghĩa tao khang đâu mà.

Nghe tin Vân Tiên đã mất Kiều Nguyệt Nga vô cùng đau buồn, khi nhận ra điều đó thì Kiều công đã khuyên giải, an ủi nàng rằng “Cũng chưa đồng tịch đồng sàng” tức là dù sao nàng và Vân Tiên vẫn chưa chung chiếu chung giường. Đồng thời còn an ủi rằng “Cũng chưa nên nghĩa tao khang đâu mà”. Nghĩa tao khang được nhắc đến ở đây tức là nghĩa vợ chồng, chỉ tình nghĩa vợ chồng gắn bó từ thuở nghèo khó. Vậy nên Kiều công mới an ủi nàng hà cớ gì phải đau buồn, làm gì phải “ủ mặt hoa cho phiền”, đặt nặng trong lòng. Nhưng Kiều Nguyệt Nga vẫn giữ lòng tào khang:

Nàng rằng: “Trước đã trọn nguyền,
Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ."

Tiết nghĩa được thể hiện trong suy nghĩ của Nguyệt Nga trước khi bị đưa đi cống cho giặc nước Ô Qua:

Tới nay phận bạc là ta,
Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân.
Tình phu phụ, nghĩa quân thần.
Nghĩa xa cũng trọn, ơn gần cũng nên.

Nguyệt Nga bị bắt đưa đi cống cho giặc nước Ô Qua, tới đây rồi nàng chỉ có thể tự nhủ cho thân phận bạc bẽo của mình. Tiết hạnh theo đó được thể hiện ở nàng Nguyệt Nga “nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân”, quyết tâm giữ trọn “tình phu phụ”, tình nghĩa với Vân Tiên.

Trong mối quan hệ vợ chồng, nghĩa được nâng lên thành đạo:

- Cây ngô nghe sấm đứt chồi
Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương
- Ai chèo ghe bí qua sông
Đạo nghĩa vợ chồng nặng lắm ai ơi

Tình nghĩa vợ chồng của vợ chồng Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga được xem là tấm gương mẫu mực cho các đôi vợ chồng noi theo:

Đạo vợ chồng anh phải xét cho xa
Anh Vân Tiên mù mắt chị Nguyệt Nga còn chờ

Trọng nghĩa gắn với khinh tài. Điều này không mâu thuẫn với tính thiết thực trong tính cách của người Nam bộ. Tính thiết thực giúp cho người dân Nam bộ đánh giá đúng sự quan trọng của tiền bạc, thì tính trọng nghĩa giúp cho con người đánh giá đúng vị trí của tiền bạc trong đời sống của con người. Nghĩa là đối với họ, tiền bạc tuy quan trọng, nhưng nghĩa tình còn quan trọng hơn. Ngư ông khẳng định rằng ông cứu người không phải để mong được trả ơn, mà vì lòng nhân nghĩa:

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn?

Nhân” và “nghĩa” trong câu thơ không chỉ đơn thuần là tình cảm giữa người với người, mà còn thể hiện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, là sự tự nguyện giúp đỡ mà không đòi hỏi sự trả ơn. Đối với ngư ông, cứu người là một hành động tự nhiên, xuất phát từ lương tâm và lòng tốt, và không mong cầu, trông chờ sự đền đáp. Khi đưa Lục Vân Tiên đến nhà Võ Công, ngư ông nhấn mạnh rằng ông giúp đỡ vì nhân nghĩa, không phải vì mong đợi đền ơn bằng bạc vàng.

Xin tròn nhân ngãi còn hơn bạc vàng

Trong câu thơ, “nhân ngãi” có thể hiểu là tình người, tình nghĩa. Ngư ông khẳng định rằng sự giúp đỡ của mình đối với Lục Vân Tiên không phải là vì tiền bạc hay đền đáp, mà hoàn toàn vì lòng nhân ái và tấm lòng.

Vân Tiên bày tỏ lòng biết ơn và sẽ không bao giờ quên ơn những người đã giúp đỡ mình:

Ghi lòng dốc trọn thảo ngay,

Nếu người Bắc Bộ xem đồng tiền như một thứ đồ quyền năng “nén bạc đâm toạc tờ giấy” hay “có tiền mua tiên cũng được” thì tác giả dân gian người Nam Bộ lại cho rằng:

Tiền tài như phấn thổ,
Nghĩa trọng tợ thiên kim
Con le le mấy thuở chết chìm
Người bạc tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi

Qua câu ca dao trên, tác giả dân gian đã khẳng định rằng tiền tài chỉ như bụi đất (phấn thổ) còn cái nghĩa lại nặng (trọng), lại quý như ngàn vàng (thiên kim). Đối với họ, người có nghĩa là người quý, thậm chí, nghĩa còn là tiêu chí để người con gái chọn chồng:

- Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Ðiền,
Anh thương em thì đừng cho bạc, cho tiền,
Cho nhơn, cho nghĩa, kẻo xóm giềng cười chê
- Thương nhau chẳng luận sang hèn
Nghĩa nhân mới trọng, bạc tiền đâu hơn

Người con gái Nam Bộ sẵn sàng đợi chờ người con trai:

Sông dài cá lội biệt tăm
Thấy anh người nghĩa mấy năm em cũng chờ

Đôi khi, họ còn chấp nhận sống nghèo nàn để giữ trọn đạo nghĩa. Người ta khuyên con người phải giàu đúng theo cái nghĩa cái tình, chớ vì bạc vàng mà lấy “của phi nghĩa”:

Của phi nghĩa có giàu đâu
Ở cho ngay thật giàu sau mới bền

Ca dao Nam Bộ thường có hình ảnh biểu tượng “con chim nho nhỏ”. Công thức con chim nho nhỏ đó thường là mở đầu cho một lời khuyên. Trong số đó, tác giả dân gian đã có một (số) câu với chủ đề trọng nghĩa khinh tài: 

- Con chim nho nhỏ,
Cái lông nó đỏ,
Cái mỏ nó vàng,
Nó kêu người ở trong làng,
Đừng ham lãnh lụa phụ phàng vải bô

Tinh thần trọng nghĩa khinh tài ấy cũng đã giúp cho người dân Nam Bộ đồng lòng chống Pháp, quyết không vì tiền bạc mà chống lại đồng bào:

Dẫu nghèo đi gặt lúa mua
Đi đào củ chuối sống qua tháng ngày
Còn hơn làm mọi cho Tây
Để nó sai khiến gọi mày xưng tao

Người dân Nam Bộ không chỉ sống theo nghĩa mà còn sống vì nghĩa. Điều đó đã hình thành cho họ tính hào hiệp, sống hết mình, sẵn sàng đùm bọc, che chở cho nhai. Tinh thần trọng nghĩa ấy đã được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu khái quát thành hai câu thơ “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

Lục Vân Tiên đã được lão tiều cứu giúp lúc rơi vào cảnh khó khăn khi trước đó bị Võ Công hãm hại:

Ngửa trông lượng cả cao dày,
Cứu trong một buổi, ơn tày tái sinh.

Khi gặp khó khăn trong tình cảnh bị Võ Công hãm hại thì ông Tiều cũng chính là một trong những người đưa tay ra giúp đỡ Vân Tiên, do đó mà Vân Tiên mới bày tỏ sự biết ơn của mình “Ngửa trông lượng cả cao dày/Cứu trong một buổi, ơn tày tái sinh”. Cũng vì hành động giúp đỡ ấy của lão tiều mà Vân Tiên đã ngỏ lời muốn trả ơn:

Mai sau về tới Đông thành
Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi.

Nhưng ông tiều đáp lại rằng:

Ông Tiều giúp đỡ Vân Tiên là xuất hiện từ chính mong muốn, tấm lòng thương người của ông chứ không phải vì lợi ích nào khác. Mặc dù yếu kém về vật chất nhưng lại là một người giàu lòng “nhân nghĩa”, là người sẵn lòng đưa tay giúp đỡ người gặp nạn, người rơi vào tình cảnh khó khăn, với một kẻ xa lạ như Vân Tiên ông Tiều cũng không ngần ngại giúp đỡ, lo lắng thậm chí gắng sức để cõng chàng về nhà. Chữ nghĩa được thể hiện ở ông tiều chính là lòng thương người, giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn xuất phát từ cái tâm chứ không phải vì muốn nhận bất kì lợi ích nào và được thể hiện bằng việc ông từ chối sự trả ơn của Vân Tiên.

Như phía trên đã đề cập, bộ ba Nhân Nghĩa Dũng đã bổ sung cho nhau, tạo nên bản sắc con người Nam Bộ. Nghĩa trước hết phải bắt đầu từ lòng nhân tức là thương người. Là mảnh đất của dân tứ chiếng, đối mặt với sự hoang vu, hiểm độc của núi rừng, người Nam Bộ phải đoàn kết lại với nhau mới sống được. Ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết, dám hy sinh vì nghĩa lớn là đặc trưng của người đi mở cõi:

Rồng chầu ngoài Huế
Nước chảy Đồng Nai
Nước sông trong chảy ruộng ngoài
Thương người xa xứ lạc loài đến đây

Hay:

Nước sông trong chảy ruộng ngoài
Thương người xa xứ lạc loài đến đây

Nếu ở Bắc Bộ, tuy không có ý gì xấu, con người ta thường có một thói quen là cười vào những khuyết thiếu của một nhóm người thì người Nam Bộ lại phản ứng hoàn toàn trái ngược:

Thấy người hoạn nạn thì thương
Thấy người tàn tật lại càng thương hơn

Nam Bộ là nơi đón đầu những xu hướng mới của thế giới trong thời kỳ Pháp thuộc. Song, ngay khi người dân các nơi đang hào hứng trong phong trào Âu hóa, thì người dân Nam Bộ vẫn không quên ngoái lại những con người nghèo khổ:

Châu Hưng có ổ kiến vàng
Có anh xe kéo thương nàng bán rau

Hay:

Lên xe, xe thét, xe gầm
Lòng thương người nghĩa dãi dầm nắng mưa

Tính trọng nghĩa của con người miền Nam, như dòng sông cuồn cuộn chảy, đã trở thành một phần máu thịt trong tư tưởng và tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu. Qua Lục Vân Tiên, phẩm chất ấy không chỉ là nét đẹp đạo đức mà còn là lời ca tụng sự kiên trung, cương trực của mảnh đất phương Nam. Những câu thơ chân chất, mộc mạc nhưng đầy ý nghĩa đã truyền tải sâu sắc tinh thần “trọng nghĩa khinh tài,” để lại bài học về nhân cách sống cao quý cho hậu thế. 

Chia sẻ câu chuyện này

Thiết kế và dàn trang TRẦN VĂN HẬU
Tác giả xnghiem

Share