Bản nhạc này còn có tên Thập diện mai phục (quân Hán bao vây quân Sở mọi bề) hay Hoài Âm bình Sở (Hàn Tín đánh bại quân Sở), lấy trận chiến ở Cai Hạ của Lưu Bang, Hạng Vũ làm chủ đề, vận dụng kỹ xảo riêng của đàn tỳ bà để miêu tả cảnh binh lính giao tranh khiến linh tâm của người nghe chấn động.
Ra đời vào khoảng năm 200 TCN, khúc Thập diện mai phục mang âm hưởng gấp gáp, mãnh liệt, dữ dội và bi thương của chiến trận, được lưu truyền đến tận ngày nay nhưng không ai biết tác giả là ai.
Thập diện mai phục là một trong mười khúc cổ nhạc nổi tiếng của Trung Quốc (Cổ cầm thập đại danh khúc). Khúc nhạc này ra đời từ sự việc Tây Sở Bá vương Hạng Vũ và Hán vương Lưu Bang giao tranh ở Cai Hạ năm 202 TCN. Khi đó, Lưu Bang cử Hàn Tín làm đại tướng quân lãnh đạo 30 vạn quân Hán bao vây 10 vạn quân Sở ở Cai Hạ. Trong đêm, quân sư của Lưu Bang là Trương Lương sai những quân sĩ biết phương ngôn đất Sở dùng tiêu thổi nhạc, hát bài ca nước Sở. Nghe những lời hát đó, quân Sở động lòng nhớ quê, ý chí chiến đấu tan rã, bỏ ngũ hoặc đầu hàng.
Chỉ còn lại hơn ngàn người bên cạnh, Hạng Vũ quyết định rạng sáng sẽ phá vòng vây, quay về Giang Đông. Nhưng ái thiếp của Hạng Vũ là Ngu Cơ biết mình khó có thể cùng chồng thoát khỏi vòng vây nên đã tự vẫn trong quân doanh. Hạng Vũ dẫn theo tùy tùng hơn tám trăm kị binh phá được vòng vây nhưng bị truy sát, đến bên sông Ô chỉ còn lại một người một ngựa, tự cảm thấy không còn mặt mũi nào về Giang Đông gặp lại cha già nữa nên đành tự vẫn. Khúc nhạc thể hiện cảnh chiến trường dữ dội, lồng vào đó là sự đau đớn biệt ly giữa Hạng Vũ và Ngu Cơ.
Trong Tứ chiếu Đường tập Thang tỳ bà truyện, tác giả Vương Du Định viết rằng thời Minh có cầm thủ Thang Ưng Tăng (1585 – 1652) với hơn 110 bản đàn tuyệt diệu mà khúc Hoài Âm bình Sở được cho là hay nhất, vì thế người đời gọi ông là Thang tỳ bà Hán Sở khúc.
“Giữa lúc đôi bên quyết chiến, tiếng sát long trời lở đất, ngói trên mái nhà dường như cũng rung rinh; lại có tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng cung kiếm, tiếng người ngựa gào thét; lâu lâu có nỗi oan khó tỏ bày là tiếng Sở ca thê lương mà hùng tráng, là tiếng Hạng Vương từ biệt Ngu Cơ; ở đầm lớn có tiếng quân kỵ đuổi theo; đến Ô Giang có tiếng Hạng Vương tự vẫn, tiếng gió ngựa giày đạp của quân kỵ tranh xác Hạng Vương, khiến người nghe hưng phấn rồi kinh hoàng, cuối cùng bật khóc mà bàng hoàng, sự cảm động lòng người đạt tới độ như vậy”.