Chúa Nguyễn Bắc phạt – Kỳ 6: Muốn bắt phải thả

Tác giả Wong Trần
Chúa Nguyễn Bắc phạt – Kỳ 6: Muốn bắt phải thả

Quân Nguyễn đang bàn cách đối phó với Khê quận công Trịnh Trượng của Đàng Ngoài. Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến hỏi Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật:

– Sẽ dùng kế gì?

Hữu Dật nói:

– Nay quân ta hãy tạm lui về bờ cõi, đóng đồn ở địa phận Thanh Hà, để tỏ ra là yếu. Rồi bí mật sai một dũng tướng dẫn bộ binh và voi chiến mai phục ở Lũng Bông, sai một viên tướng dẫn thủy binh đóng đồn ở cửa biển để đợi. Nếu quận Khê dẫn quân thẳng tới Dinh Cầu, thấy quân ta đã lui về biên giới phía Nam, hắn ắt tự phụ, cho là quân ta khiếp sợ. Họ ắt tự cho mình là hùng dũng, không có chuẩn bị. Ta nhân đó thừa lúc họ lơ là mà phát binh đánh phá, ắt sẽ bắt được quận Khê thôi. Còn cánh quân ngoài của Lũng quận công ở cửa biển Kỳ La, nghe tin quận Khê thua trận, cũng sẽ tự chạy. Thủy binh ta thừa thế truy kích, ắt sẽ thu toàn thắng. Đó là kế nhất cử lưỡng toàn.

Nguyễn Hữu Tiến nghe xong cả mừng, bảo:

– Kế ấy rất diệu! Tôi sẽ y theo đó, mật dụ các tướng thi hành.

Nói rồi, Nguyễn Hữu Tiến ban lệnh cho các quân rút lui, và mật sai Cai cơ Hùng Oai hầu Trương Phước Hùng dẫn ba ngàn quân và 30 con voi đực mai phục trong chỗ kín ở Lũng Bông; sai Cai cơ Vân Long hầu Nguyễn Phước Tráng dẫn 20 chiếc chiến thuyền ẩn nấp ở cửa Ròn. Các đạo quân khác rút về Thanh Hà bên bờ sông Gianh.

Trịnh Trượng là con thứ ba của Trịnh Tráng. Từ năm 1614, Trịnh Trượng lúc đó còn là vương tôn, đã được phong làm Liêm quận công. Trong mấy chục năm sau đó, Trịnh Trượng chỉ có một chiến công duy nhất. Đó là vào năm 1645, khi Hoa quận công Trịnh Sầm và Phù quận công Trịnh Lịch khởi binh chống Thế tử Trịnh Tạc. Trận chiến đẫm máu diễn ra ở kinh thành. Trịnh Lịch bị chém tại trận, còn Trịnh Sầm chạy vào Ninh Giang. Trịnh Trượng lúc này đã là Thái bảo Khê quận công, được lệnh đem quân truy kích. Trịnh Trượng đuổi bắt được Trịnh Sầm ở Chúc Sơn, chém đầu dâng công. Mối liên hệ này có lẽ khiến thế tử Trịnh Tạc tin tưởng người anh của mình, và giao phó nhiệm vụ thu phục Dinh Cầu.

Lúc Trịnh Trượng tiến vào Dinh Cầu ở huyện Kỳ Hoa thì đã thấy quân Đàng Trong rút hết về sông Gianh. Trịnh Trượng vừa vui mừng, vừa nghi ngờ. Ông bèn bàn bạc với các quan. Trịnh Trượng nói:

– Chúa Nam sai Thuận Nghĩa, Chiêu Vũ dẫn quân phá Tả tướng Tiến Hàn, đã lấy được Dinh Cầu và các xứ. Cớ chi lại bỏ đất trở về cõi Nam, không để quân lại phòng giữ, chẳng hiểu họ có ý gì? Hay là nghe đại binh ta kéo tới, nên ngầm mưu đặt phục? Hay là ít chẳng địch nổi nhiều, nên tính kế trốn về trước? Binh pháp hư thực khó mà đoán được. Các ông nên dốc hết hiểu biết trong lòng, luận tính thể nào, cho xong việc binh.

Đốc đồng Nguyễn Văn Trạc bàn rằng:

– Ngày trước Tả phủ Tiến Hàn tọa trấn Dinh Cầu, nhiều phen khinh địch, làm dấy lên chiến tranh, khiến trăm họ kinh hoàng, nhân dân sầu khổ, đến nỗi binh bại thân vong. Ngày nay thánh đức sai Nguyên soái dẫn quân thu phục Dinh Cầu, đại binh chưa đến mà quân Nam đã quay về trước, không phải là có ý khiếp nhược. Vả quân Nam về võ có Thuận Nghĩa, văn có Chiêu Vũ, đều là tướng trí dũng. Ba quân thừa thắng, nhuệ khí đang lên. Nay lại bỏ Dinh Cầu, tôi sợ bên trong ắt là kế dụ địch. Huống hồ Nguyên soái tọa trấn Dinh Cầu, tôi luận thấy có ba điều bất lợi. Nếu đợi việc xảy ra rồi, thì e không khỏi như cố sự của Tả phủ Tiến Hàn.

Trịnh Trượng cả kinh, bảo:

– Thế nào là ba điều bất lợi. Xin Tham mưu nói cho tường.

Nguyễn Văn Trạc nói:

– Nay dân Bố Chính và huyện Kỳ Hoa đã hàng chúa Nam. Nếu quân Nam tiến công, dân Kỳ Hoa ắt làm nội ứng, trước mặt sau lưng đều thọ địch. Nguyên soái sẽ lấy gì mà chế ngự? Đó là một điều bất lợi. Huống hồ Dinh Cầu thủy bộ cách trở, không có tiếp ứng, khó thể dựa nương, tấn công đã khó, tiến lui cũng không dễ. Đó là hai điều bất lợi. Dinh Cầu địa thế chật hẹp, tiến lui không tiện. Nếu quân và voi của bên Nam thừa thế vọt qua Hoành Sơn, ruổi dài kéo tới, quân ta sẽ khó chế ngự. Đó là ba điều bất lợi. Chi bằng lui quân về đóng đồn ở xã Lạc Xuyên Hạ, phòng bị việc không ngờ, mới là thượng sách. Vả lại xứ đó có sông lớn to rộng, dễ dàng chiến đấu, thủy bộ nối nhau, tùy cơ ứng biến. Đó là phép lớn của binh gia. Lời bàn luận nông cạn của tôi là thế, mong Nguyên soái tự liệu, để khỏi trúng kế quân Nam.

Trịnh Trượng gật đầu cho là phải, bèn cho quân lui về xã Lạc Xuyên Hạ. Lại lệnh cho bọn Địch quận công, Tài quận công chia nhau đóng đồn ở Lạc Xuyên Thượng. Chỗ này nằm trên sông Lạc Giang, đổ ra cửa biển Kỳ La – tức là cửa Nhượng. Cửa biển này là chỗ thủy quân của Lũng quận công Vũ Văn Thiêm đóng đồn. 

Vũ Văn Thiêm người xã Đại Đê, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam, là dòng dõi nhà Nho. Từ năm 1649, Vũ Văn Thiêm đã là Trấn thủ Sơn Nam, coi Nội Thủy quân doanh, kiêm tri Thủy sư Trung quân Đô đốc phủ Tả đô đốc, Phó tướng, Lũng quận công. Kinh nghiệm chỉ huy thủy quân của Vũ Văn Thiêm là dày dặn, nhưng thành tích thực chiến dường như không có. Việc họ thoát được cái bẫy do Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật giăng ra là một thành tích đáng tự hào.

Bên phía Đàng Trong, Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến và Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật thấy kế mình bị phá thì tỏ ra bực tức. Họ mắng rằng:

– Tiểu bối Văn Trạc! Sao dám hiểu được mưu hay của ta, khiến cho giặc Khê trốn thoát!

Nói như thế là hơi hỗn, vì Nguyễn Văn Trạc lớn hơn cả hai đến mấy tuổi. 

Hai người lại cho thám thính, biết được Trịnh Trượng không cho đóng quân ở Dinh Cầu, chỉ hàng ngày phái chừng 500 quân đi tuần xuống đó, sáng đi tối về. Quân Trịnh còn chia nhau đi ra các xã, bắt lấy thóc gạo, hoa màu, gà, lợn, trâu bò của dân để về chia cho quân lính. Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật nhận định: Tình thế này cho thấy quân Trịnh đang gặp khó khăn về lương thực; Trịnh Trượng không có lòng chiến đấu. Họ quyết định dâng khải về cho chúa Hiền xin đánh úp.

Chúa Hiền lúc này đã dời ra đóng tạm ở Dinh Cũ tại xã Ái Tử. Chỗ này là doanh trại cũ của chúa Tiên Nguyễn Hoàng, gần với tiền tuyến hơn. Chúa Hiền nhận được khải của hai người. Trong đó nói:

Ngày xưa quân Tào trăm vạn mà bị bẻ gãy bởi Đông Ngô, Hác Chiêu có ba ngàn mà chống cự được Gia Cát. Đông hay ít không phải là thứ đáng bàn. Nay Trịnh Trượng dẫn quân xuống phía Nam, hơn tháng mà chưa từng đánh một trận, còn bỏ Kỳ Hoa lùi về chiếm Lạc Xuyên. Thế là quân tuy đông mà không có chí chiến đấu. Chúng thần xin phát binh công kích. Đại quân theo sau tiếp ứng. Và bày thủy quân ở sông Gianh để làm thanh viện”.

Chúa Hiền tán thành, bèn sai sứ ra truyền lệnh rằng:

Mưu ấy hay cực, rất hợp ý ta. Tiết chế nên cùng các tướng phân phái điều khiển. Nếu đối phương lui quân, nên thừa cơ đánh gấp, chớ được lơ là, phải ruổi dài tiến mạnh, không để quân giặc ngoái đầu. Ta sẽ thân dẫn đại binh theo sau tiếp ứng, thu phục Trung Đô, bắt diệt họ Trịnh. Quận Khê là bệnh ghẻ lở bên mình, chớ để hắn ở lâu nơi đó, làm cho tướng sĩ lìa lòng, thì khó cử sự lần hai”.

Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến lần này chia bộ binh thành hai đạo. Thượng đạo men núi tiến đánh các đồn trại quân Trịnh ở xã Lạc Xuyên Thượng. Hạ đạo đánh vỗ mặt vào quân Trịnh Trượng ở Lạc Xuyên Hạ. 

Quân hạ đạo do Trấn thủ dinh Bố Chính là Phù Dương, Cai cơ Trương Phước Hùng làm Chánh tiên phong, Cai cơ Thuần Đức làm Tả tiên phong, Cai cơ Khuê Thắng làm Hữu tiên phong, Cai cơ Diên Lộc làm Tả vệ trận, Thịnh Hội làm Hữu vệ trận. Trung quân do đích thân Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến và Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật chỉ huy. Quân hậu ứng do Cai cơ Tống Phước Khang chỉ huy, có 300 con voi đực đi kèm.

Quân thượng đạo do Trung Nghĩa tướng Phạm Tất Toàn chỉ huy Tả chi; các viên Chưởng cơ Xuân Sơn, Cai cơ Phù Tài, văn chức Cống Giác làm Hữu chi. Trấn thủ dinh Cũ là Tống Hữu Đại làm tiếp ứng. Dưới quyền Phạm Tất Toàn có bốn đội quân lấy lính từ Đàng Ngoài và năm đội quân từ dinh Quảng Bình.

Phân phái xong xuôi, Nguyễn Hữu Dật lại nhận được tin báo quân tuần tiễu của Trịnh lại kéo vào. Đây là một cơ hội cực tốt. Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến liền truyền lệnh cho các quân chuẩn bị. Đến giờ Dậu [từ 5 đến 7 giờ tối], các quân lặng lẽ tiến phát, trực chỉ Lạc Xuyên, để bắt Trịnh Trượng. 

Chưa biết thắng bại sẽ ra sao? 

Chia sẻ câu chuyện này

Minh hoạ: Minh Thảo Võ
Thiết kế và dàn trang: TRẦN VĂN HẬU

Share