Chúa Nguyễn Bắc phạt – Kỳ 7: Ông Ninh xuất trận

Tác giả Wong Trần
Chúa Nguyễn Bắc phạt – Kỳ 7: Ông Ninh xuất trận

Tháng Tám năm Ất Mùi [1655], Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến chia quân thành hai đường thượng đạo và hạ đạo, nhắm thẳng Lạc Xuyên, đi bắt Trịnh Trượng. 

Các quân hẹn giờ Dậu [từ 5 đến 7 giờ tối] thì xuất phát từ sông Gianh. Chánh tiên phong hạ đạo là Trấn thủ Phù Dương, Cai cơ Trương Phước Hùng tiến quân tới cửa Ròn, rồi vọt qua Hoành Sơn, xua quân đánh thẳng vào Dinh Cầu. Vào lúc tảng sáng, du binh của Trịnh bị đánh bất ngờ, kinh hoàng tháo chạy về xã Lạc Xuyên Hạ. 

Khê quận công Trịnh Trượng vừa nhận được tin báo từ bọn du binh chạy về, thì quân Nguyễn của cánh hạ đạo đã đánh tới ngoài doanh. Trên hướng thượng đạo, các tướng Tống Hữu Đại, Chưởng cơ Xuân Sơn, Cai cơ Phù Tài, Trung Nghĩa tướng Phạm Tất Toàn chia nhau đánh bốn đồn quân Trịnh ở Lạc Xuyên Thượng do bọn quận Tài, quận Địch coi giữ. Bị đánh bất ngờ, quân Trịnh tan vỡ. Trịnh Trượng bỏ voi chạy bộ, tìm đường chạy trốn. Quận Tài, quận Địch nghe tin chính doanh của mình đã thua, cũng dẫn quân rút chạy. Hai đạo quân thượng, hạ của bên Nguyễn hội nhau ở xã Lạc Xuyên Hạ.

Đến giờ Thân [từ 3 đến 5 giờ chiều], Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến sai Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật đưa quân ra cửa biển Kỳ La đánh thủy quân của Lũng quận công Vũ Văn Thiêm. Thủy quân Nguyễn cũng tiến vào cửa biển. Vũ Văn Thiêm chống trả được ít lâu, rồi đem quân rút hẳn về cửa biển Đan Nhai.

Trận Lạc Xuyên quân Nguyễn thu được nhiều khí giới, voi ngựa và thuốc đạn do quân Trịnh vứt lại. Vì đã có lệnh từ trước nên quân Nguyễn tổ chức truy kích tàn quân Trịnh. Thủy quân Nguyễn tiến vào cửa biển Nam Giới. Tướng Trịnh giữ cửa biển này là Nguyễn Hữu Sắc và Lê Sĩ Hậu. Vừa thấy bóng quân Nam, Nguyễn Hữu Sắc liền bỏ chạy. Lê Sĩ Hậu phải vừa đánh vừa rút lui. Quân Nguyễn chiếm được cửa biển. Trịnh Trượng phải chạy thẳng về An Trường, dựa vào sông Lam để thiết lập phòng tuyến. Bộ binh Nguyễn dưới sự dẫn dắt của hàng tướng Đặng Minh Tắc cũng tiến vào xã Bân Xá, huyện Thiên Lộc ở phía Nam sông Lam.

Trịnh Trượng và Vũ Văn Thiêm đem số quân thủy bộ còn lại chia đóng từ núi Nghĩa Liệt tới cửa biển Đan Nhai để phòng bị, một mặt dâng biểu về triều báo tin thua trận.

Trận thảm bại của Trịnh Trượng còn nặng nề hơn Lê Văn Hiểu. Chúa Trịnh Tráng phải phái Thế tử Tây Định vương Trịnh Tạc dẫn quân vào Nghệ An. Tháng Chín cùng năm [1655], Trịnh Tạc đem quân tới An Trường. Việc đầu tiên mà Thế tử làm chính là luận công tội của các tướng trong trận Lạc Xuyên. 

Hai tướng La Đức Đại và Nguyễn Hưng Nhượng bị xử trảm. Tạ Thế Bảo bị xử giảo (treo cổ). Trịnh Đá, Lê Hữu Lễ bị bãi chức. Trịnh Trụ bị giáng làm Đô đốc Đồng tri. Xá lại Đỗ Công Khôi, Trần Hữu Tài có nhiệm vụ quan chiến, nhưng lại tư tình, lấy lỗi làm công, nên bị xử chặt ngón tay. Riêng Trịnh Trượng là Thống lĩnh toàn quân lại chẳng thấy trách phạt gì. Bên cánh thủy quân còn được xử nhẹ nhàng hơn. Vũ Văn Thiêm được bổ làm Tả đô đốc. Trương Đắc Thọ được khôi phục tước Trình quận công. Chỉ có Nguyễn Hữu Sắc bị bãi hết chức tước. 

Nhưng Thế tử Trịnh Tạc cũng không làm được gì để thay đổi tình hình. Ở Đông Kinh, chúa Trịnh Tráng bàn bạc về chuyện Khê quận công Trịnh Trượng thua trận, thì có một người cao giọng nói:

– Quận Khê là hạng vô mưu, mới khiến bại vong. Thần xin lĩnh quân ruổi dài thẳng tiến, bắt Thuận, Chiêu nạp ở dưới cờ, để tỏ anh hùng.

Chúa Trịnh Tráng trông ra, thì là lão tướng Đô đốc đồng tri Đương quận công Đào Quang Nhiêu (1601 – 1672), bấy giờ đã 54 tuổi. Đào Quang Nhiêu người làng Tuyền Cam huyện Thanh Oai, vốn họ Nguyễn Gia, là con nuôi của công thần Yên quận công Đào Quang Hoa, được tập ấm cha nên được coi quân. Năm 1645, trong loạn Trịnh Lịch và Trịnh Sầm, thì Đào Quang Nhiêu là tướng dẫn quân, đã chém được Trịnh Lịch ngay trong trận. 

Chúa Trịnh Tráng bằng lòng, nhưng vẫn cần một người trong dòng họ chúa để chỉ huy tất cả. Ông bèn chọn người con trai nhỏ tuổi là Trịnh Toàn.

Trịnh Toàn là con trai do Thị nội cung tần Lê Thị Ngọc Ngôi sinh ra vào năm Đức Long thứ hai [1631]. Trịnh Toàn về sau được phong Phó tướng, Đô đốc phủ Tả đô đốc, tước Ninh quận công. Bởi tước phong này, dân gian thường gọi Trịnh Toàn là Ông Ninh. Lúc này Trịnh Toàn mới 24 tuổi, còn trẻ hơn cả chúa Hiền Nguyễn Phước Tần. 

Chúa Trịnh Tráng lập bốn cánh quân. Cánh thứ nhất do Trịnh Toàn làm Thống lĩnh. Bồi tụng Thiêm đô ngự sử Phụng Trì nam Lê Đình Dự làm Đốc thị. Giám sát ngự sử Trịnh Thế Tế làm Phó đốc thị.

Cánh thứ hai do Đô đốc đồng tri Đương quận công Đào Quang Nhiêu làm Đốc suất. Bồi tụng Hộ khoa Đô cấp sự trung Thọ Lĩnh bá Phan Hưng Tạo làm Đốc thị. Giám sát ngự sử Nguyễn Tá Tướng làm Phó đốc thị.

Cánh thứ ba do Đô đốc thiêm sự Đông quận công Lê Hữu Đức làm Đốc suất. Bồi tụng Công khoa cấp sự trung Thọ Quế nam Phan Kiêm Toàn làm Đốc thị. 

Cánh thứ tư là thủy quân do Tả đô đốc Lũng quận công Vũ Văn Thiêm làm Đốc suất. Lại bộ Hữu thị lang Thọ Lâm nam Dương Hồ làm Đốc thị.

Trịnh Toàn tuy là vương tử, nhưng rất hiểu tình cảnh đói rét của quân lính. Trước khi lên đường, ông vào hỏi xin chúa Trịnh Tráng cấp cho quân lính mỗi tháng 7 tiền – tức 70 đồng, để lo chi phí trên đường hành quân. Trịnh Toàn kể lể nỗi khổ của người lính khi đi đánh trận mà vợ con còn phải gửi lương thực ra. Chúa Trịnh Tráng thấy con mình nhân hậu, hứa cho mỗi người mỗi tháng 6 tiền – tức 60 đồng. Nhưng Trịnh Toàn không bằng lòng. Trịnh Toàn cho rằng số đó không đủ chi phí. Sau một hồi tranh biện kỳ kèo, chúa bằng lòng nâng lên 70 đồng mỗi tháng. Trịnh Toàn mừng rỡ lui ra.

Chúa Trịnh Tráng còn sai bắt các ghe giã của dân chúng để chở lương thực cho quân lính. Bảy chiếc được dành để chở rượu tăm. Các thuyền khác thì chở 500 vò đường cát, cùng với các thứ bột lọc, cát căn, gạo trắng, mắm rạm và trà. 

Trịnh Toàn còn truyền lệnh cho ba quân sai mua sẵn rượu tăm. Rượu này trước tiên dùng để cúng tế, và cũng để phòng khi cha mẹ, anh em, người thân của quan binh đến mừng thì rót rượu ấy mời họ. Trịnh Toàn còn quan tâm tới cả vợ con của quân lính. Trịnh Toàn bảo với họ giá yếm đào ở kinh đô đang rẻ, nên mua để gửi về cho vợ, đồng thời gửi cho con 30 đồng để “con nó mừng”. 

Trước khi lên đường, Trịnh Toàn còn tới chào mẹ mình là Đức Bà Sang – tức Thị nội cung tần Lê Thị Ngọc Ngôi. Trịnh Toàn còn nhân đó xin thêm một ít vàng bạc, vải vóc để phát cho quân lính. Đức Bà Sang chảy nước mắt nói:

– Con chẳng thấy Đức chúa Khê còn đánh chăng được giặc, huống gì là con!

Mặc dù vậy, bà Sang cũng cho con bốn vạn đồng tiền, một trăm lạng bạc, cùng với bốn cái xuyến vàng để làm lộ phí. Chúa Trịnh Tráng phát cho quân lính một tháng 7 tiền. Trịnh Toàn phát ngay một quan hai – tức 620 đồng. Nhờ sự hào phóng đó, quân lính no đủ, tinh thần cũng phấn chấn. Tình cảnh khác hẳn với thời phải đi bắt gà bắt lợn của dân hồi Khê quận công Trịnh Trượng nắm quyền. Các quân chia đường tiến vào Nghệ An.

Bấy giờ là tháng Mười năm Ất Mùi [1655]. Trịnh Toàn kéo quân vào Nghệ An. Dưới quyền Trịnh Toàn lúc này có một mãnh tướng là Đinh Văn Tả. 

Đinh Văn Tả người Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng, trấn Hải Dương, tự xưng là dòng dõi Đinh Tiên Hoàng, là con trai công thần Hùng quận công Đinh Phủ dưới thời Trịnh Kiểm. Đinh Văn Tả giỏi cưỡi ngựa bắn cung, lúc nhỏ làm du đãng, ba lần có tên trong án cướp, nhưng không bị bắt. Đến sau, Đinh Văn Tả tỉnh ngộ, tự mình ra đầu thú, nên bị quản thúc ở công sở. Bấy giờ chúa Trịnh bày sân bắn ở lầu Ngũ Long. Đinh Văn Tả được giải ngang đó, trông thấy, bảo ngục tốt rằng:

– Không bắn trúng nổi, còn dùng họ làm gì?

Người bắn nổi giận, rút súng, bảo Tả bắn. Đinh Văn Tả cầm khẩu súng lớn kẹp vào má, bắn liền ba phát, phá vỡ ba bức tượng chim cốc làm đích nhắm. Các viên khác cũng thách bắn. Đinh Văn Tả hễ bắn là trúng. Viên khảo quan kinh ngạc, đem việc tâu lên Thế tử Trịnh Tạc. Thế tử bèn tha tội, cho vào quân ngũ. 

Năm 1624, Đinh Văn Tả theo quân đi đánh Cao Bằng, bắt được vua Mạc là Mạc Kính Cung. Năm 1646, vì có công tố cáo âm mưu phản loạn của Hoàng Nhân Dũng, nên Đinh Văn Tả được phong làm Tham đốc. Lúc Trịnh Toàn làm Thống lĩnhNam chinh, Đinh Văn Tả cũng thuộc quyền.

Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến và Đốc chiến Nguyễn Hữu Dật dùng lại kế sách cũ. Quân Nguyễn rút lui để tránh thế mạnh của quân Trịnh. Khi đại quân của Trịnh Toàn tiến vào huyện Kỳ Hoa thì quân Nguyễn tự rút lui.

Mặc dù chính sử của cả hai bên Trịnh, Nguyễn đều không ghi nhận trận đánh đáng kể nào, nhưng tiểu sử của Đinh Văn Tả cho thấy có một vài trận đánh đã nổ ra trên địa bàn huyện Kỳ Hoa. Phần thắng thuộc về phía quân Trịnh. Đây có lẽ là những trận giao tranh với lực lượng chặn hậu của phía Nguyễn. Truyện thơ Ông Ninh cổ truyện viết về Trịnh Toàn cũng ghi nhận một trận ác chiến giữa mười vạn quân Ông Ninh và mười vạn quân chúa Hiền ở khu vực này. Trận chiến ác liệt đến mức một cái lọng vàng trên voi của Trịnh Toàn bị bắn gãy. Trịnh Toàn phải xuống ngựa chiến đấu. Quân Trịnh dùng ba ngàn súng hỏa để tấn công. Quân Nguyễn thiệt hại nặng phải rút lui. Họ đặt cho Trịnh Toàn biệt hiệu là Quận Sắt.

Truyện thơ này cũng cho biết Đương quận công Đào Quang Nhiêu được lệnh theo đường sơn cước kéo tới Chợ Ròn. Còn bản thân Trịnh Toàn thì ngăn cửa Hải Môn ở phía bắc Hoành Sơn. Có lẽ đây chính là lúc Trịnh Toàn cho thiết lập hệ thống chiến lũy trên dãy Hoành Sơn, mà hậu nhân gọi là lũy Ông Ninh. Nhưng quân Trịnh không cố thủ phòng tuyến mới đó. Đến tháng Mười Một, ba đạo quân của Trịnh Toàn, Đào Quang Nhiêu và Lê Hữu Đức lại rút lui về An Trường. 

Thế tử Trịnh Tạc vội vàng sai bọn Trịnh Toàn trở về kinh đô, chỉ giữ lại một số thân tín cũ như Vũ Văn Thiêm, Đào Quang Nhiêu ở lại Nghệ An. Trịnh Toàn trở về Đông Kinh như một người anh hùng chiến thắng. Tháng Mười Hai năm đó [1655], chúa Trịnh Tráng thăng Trịnh Toàn làm Thiếu bảo, cho phép mở quân doanh, đặt tên là Tả Dực Nội quân, và ban cho ấn của doanh ấy. Sau nhiều tháng chiến tranh ác liệt, trận đại chiến cuối cùng cũng kết thúc. Nhân dân hai miền sẽ lại được hưởng cảnh thái bình.

Làm gì có chuyện đó! Sự việc rốt cuộc sẽ ra sao?

Chia sẻ câu chuyện này

Minh hoạ: Minh Thảo Võ
Thiết kế và dàn trang: TRẦN VĂN HẬU

Share