1. Huyện Hưng Nguyên:
Xã Mỹ Dụ có Nguyễn Thặng, là ưu binh thuộc Thị hầu Ưu Tiền thuyền. Năm Giáp Ngọ (1774), Nguyễn Thặng theo hầu chúa Trịnh Sâm trong chiến dịch đánh Đàng Trong, được thăng một thứ, lên chức Bá hộ. Năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Thặng “cùng chư quân trong ngoài dực đái có công”, được ban chỉ thăng hai thứ, nên được phong Kiệt Trung tướng quân, Hiệu Lệnh ty Kỳ Bài tráng sĩ, Vân Kỵ úy, Thiên hộ, trung tuyển.
Xã Hoàng Cần có Bá hộ Nguyễn Lam, là ưu binh ở Thị hầu nội Tả tượng. Năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Lam “cùng chư quân trong ngoài dực đái có công”, được thăng hai thứ, rồi lại thăng thêm một thứ nữa, nên được phong Trì Uy tướng quân, Thủ ngự Tổng Tri ty, Phi Kỵ úy, Thiêm tổng tri, trung chế.
Xã Bùi Khổng có Phó thiên hộ Trần Đăng Long là ưu binh của cơ Tiền Tiệp. Năm Nhâm Dần (1782), “vì giúp tự vương lúc mới nắm quyền, chuẩn cho hưởng công dực đái với chư quân”, Trần Đăng Long “một lòng suy đái”, được cho thăng một thứ, được phong Kiệt Trung tướng quân, Hiệu Lệnh ty Kỳ Bài tráng sĩ, Vân Kỵ úy, Thiên hộ, trung tuyển. Sau đó, Trần Đăng Long lại được thưởng thêm một thứ, được phong Trì Uy tướng quân, Thủ ngự Tổng Tri ty, Phi Kỵ úy, Thiêm tổng tri, trung chế. Hai sắc phong được ban cùng một ngày.
2. Huyện Quỳnh Lưu:
Xã Hoàn Hậu Đông có Nguyễn Văn Hạng, là ưu binh đội Tiền Thủy nhất. Năm 1774, Nguyễn Văn Hạng theo Phác Trung hầu đi đánh Đàng Trong. Vì công này, năm 1780, Nguyễn Văn Hạng được phong Phấn Lực tướng quân, Hiệu Lệnh ty Tráng sĩ, Bá hộ, hạ trật. Năm Nhâm Dần (1782), Nguyễn Văn Hạng “cùng chư quân trong ngoài dực đái có công”, được thăng một thứ, lại được thăng thêm một thứ, được phong Kiệt Trung tướng quân, Hiệu Lệnh ty Kỳ Bài tráng sĩ, Vân Kỵ úy, Thiên hộ, trung tuyển. Nguyễn Văn Hạng qua đời năm 82 tuổi.
3. Huyện Nam Đường:
Xã Hoa Ổ có Đội trưởng Đinh Sĩ Nhâm là ưu binh của quân doanh Trung Thống. Năm Nhâm Dần (1782), Đinh Sĩ Nhâm “cùng chư quân trong ngoài dực đái có công”, được thăng một thứ, lại được thưởng thêm một thứ, được phong Phấn Lực tướng quân, Hiệu Lệnh ty Tráng sĩ, Bá hộ, hạ trật. Về sau Đinh Sĩ Nhâm theo nhà Tây Sơn, làm Phó chiến ở cơ Trung Tá, đạo Tả Bật. Năm Quang Trung thứ 5 (1792), Đinh Sĩ Nhâm được thăng Anh Dũng tướng quân, Trung úy, tước Cận Tài tử.