Bên cạnh samurai, những lâu đài (mà thuật ngữ chính xác là Jo – “thành”) là một biểu tượng của lịch sử Nhật Bản. Trong ý niệm của công chúng, đặc trưng của thành Nhật Bản là những tòa tháp (gọi là Tenshu) nguy nga, những nền đá đồ sộ vuông vức. Nhưng đó là diện mạo mà đến thời Edo (thế kỷ 17 – 19) mới xuất hiện. Còn trước đó, thành trì ở Nhật Bản rất khác.
Lâu đài Himeji- một biểu tượng của Nhật Bản
Thành bằng đá thời Edo (thế kỉ 17 - 19) (bên trái) và thành đất thời Sengoku thế kỷ XVI (bên phải)
Ngược dòng lịch sử, những di chỉ thành quách sớm nhất ở Nhật Bản có từ thời Yayoi (thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên – thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên). Đây thực chất là những khu dân cư có hào nước, tường đất, lũy gỗ, kho tàng và tháp canh nhằm phòng thủ trước các cuộc xâm lấn của các bộ lạc đối địch. Tuy thô sơ nhưng những công sự này lại cực kỳ hiệu quả do cân bằng giữa mức độ phòng vệ và chi phí. Vì vậy chúng vẫn được sử dụng đến tận thời Sengoku, tức là hơn 1000 năm sau.
Tái hiện một thành trì vây quanh làng mạc thời Yayoi
Lũy và tháp canh gỗ thời Yayoi
Khi triều đình Nhật Bản du nhập các thể chế từ Trung Quốc vào thời kỳ Asuka và Nara (thế kỷ thứ 6 – 8), họ cũng học tập cả các thiết kế thành quách, đa số là sơn thành, lợi dụng địa hình đồi núi để củng cố phòng ngự. Một dạng thiết kế khác là La thành – gồm tường đá hoặc đất dài dằng dặc, kết nối các cứ điểm phòng thủ,. bBên trong là khu dân cư và trị sở, hay nói cách khác là một thành phố dân sự được vây bọc. Quy hoạch đó rộng lớn hơn những tòa thành thời Sengoku và Edo rất nhiều. Những thành trì này thường được xây dựng ở biên viễn tiếp giáp với các nhóm dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc hoặc tiếp giáp với Trung Quốc và Triều Tiên ở đảo Kyushu và Tây Honshu nhằm phòng vệ trước các cuộc xâm lấn.
Một quy hoạch “La thành” ở Kyushu, bên trong là cơ quan Dazaifu cai trị toàn đảo
Các “La thành” có các đoạn tường đất/đá và hào nước rất rộng, bởi vậy những đoạn này được gọi là “Thủy thành”
Trong hai cuộc chiến tranh với quân Nguyên Mông, Mạc Phủ Kamakura xây dựng những Nguyên khấu phòng lũy dọc bờ biển vịnh Hakata để chống các cuộc đổ bộ của quân Nguyên. Các lũy này là một phiên bản xây gấp của các La thành thời kỳ trước. Chúng là những tường đá cao chừng 2m và rộng cũng chừng ấy, nhưng không có hào nước bên ngoài, do vậy thời gian thi công chỉ mất vài tháng. Sau khi chiến tranh kết thúc, bức lũy này không còn được tu bổ, và sau đó một phần bị phá dỡ để lấy đá xây dựng lâu đài Fukuoka.
Tái hiện một đoạn Nguyên khấu phòng lũy
Tuy nhiên, triều đình Nhật Bản không duy trì được những tòa thành quy mô như vậy được lâu. Chính quyền trung ương dần dần đánh mất kiểm soát ở các vùng xa xôi và phải dựa vào các gia tộc võ sĩ địa phương để phòng hộ biên thùy. Hiển nhiên, các gia tộc này không đủ tài lực và nhân lực để xây dựng những tòa thành lớn. Để tự vệ trước các gia tộc đối địch, các võ sĩ tự củng cố dinh thự của mình, đào hào và dựng lũy gỗ, bên trong có kho tàng chứa lương thực, vũ khí và có cả dãy nhà cho thuộc hạ ở. Đây chính là mầm mống của các lâu đài bề thế sau này.
Một dinh thự có hào, lũy của võ sĩ
Các dinh thự đó ban đầu đều nằm ở đồng bằng, thậm chí là các làng mạc trù phú. Tuy nhiên những vị trí đó cũng là những nơi dễ công, khó thủ. Đầu thời kỳ Sengoku loạn lạc (thế kỷ 15), các gia tộc lớn phải lùi về các đồi núi hiểm trở để xây dựng những cứ điểm bất khả xâm phạm. Nhưng địa hình vẫn phải cáng đáng việc phòng thủ, còn kiến trúc công sự, lầu tháp vẫn y hệt như thời Yayoi cách đó hơn 1000 năm.
Lũy đất và tháp canh gỗ của thành thời Sengoku
Một tòa thành trên núi thời Sengoku
Đến giữa thời kỳ Sengoku, các lãnh chúa thiết kế những tòa tháp canh Yagura vững chãi hơn, với nhiều tầng, nền đá và vách vữa hoặc gỗ dày nhằm chống các loại khí cụ công thành và súng hỏa mai. Dù mang dáng dấp của những tòa Tenshu (tháp chính của lâu đài) sau này, nhưng chúng chưa đóng vai trò là cung điện, dinh thự hay và là biểu tượng quyền lực như Tenshu. Mỗi tòa thành có đến vài Yagura, đặt ở các góc trọng yếu. Thành Azuchi (xây dựng năm 1576 bởi Oda Nobunaga – người khởi xướng cho quá trình thống nhất Nhật Bản) là tòa thành đầu tiên được chủ đích xây dựng như một tòa tháp chính cao vút, chế ngự tầm nhìn toàn vùng để thể hiện địa vị của thành chủ. Từ đó, những tòa Tenshu đã trở thành bộ phận không thể thiếu của các thành Nhật Bản.
So với Tenshu, Yagura rất khiêm tốn và chỉ phục vụ công năng phòng thủ
Tái hiện Tenshu của thành Azuchi
Để xây dựng Tenshu, các lãnh chúa đã phải rất hao tiền tốn của. Tuy nhiên hỏa hoạn, chiến tranh và khó khăn tài chính đã đánh sập đa số chúng. Cho đến nay, cả nước Nhật chỉ còn lưu giữ được 12 Tenshu nguyên bản, nhưng số di chỉ thành quách còn đến hàng vạn, với muôn vàn thiết kế, thời đại và hiện trạng. Không ai có thể nói hết về chúng. Bởi vậy ở Nhật Bản hình thành bộ môn “thành học”, xuất hiện những hội nhóm tự phát của cộng đồng đam mê thành trì, cuốn hút được cả những người nước ngoài có cùng đam mê. Thế nên, dẫu chỉ còn là tàn tích, có thể nói thành quách vẫn ngự trị vững chãi trong đời sống đương đại Nhật Bản.