Tình thế hết sức cam go, vua đành phải chính tay giết con gái mình lần thứ hai. Tình hình vương quốc sau đó ổn định lại, nhưng Ca Lâu Vương thì không. Ông như là con người khác, ít nói rồi trở nên cộc tính hơn, râu tóc mọc dài trông hết sức đáng sợ. Ông ra lệnh đổi hai mươi pháp bảo ở hai mươi thành, chỉ thấy đó là những hòm gỗ cỡ người, có tin đồn rằng ông đã dính vào tà thuật, dùng quỷ trấn thành. Sau đó có người bắt được cự điểu ngoài biển, cho là Ca Lâu La trong truyền thuyết, bèn đem về dâng vua. Viết tới đây thì miếng da bị rách, các chữ phía sau mất, không tài nào đoán được.
Anh Hùng sau khi nghe xong thì trầm ngâm suy nghĩ như thường lệ, anh bảo Tú Linh cất tấm da rồi quay sang nói với ông Ba:
– Nhà ông Ba nhiều đồ lạ quá. Con chưa thấy cái này bao giờ.
Vừa nói anh vừa chỉ vào cây búa cán tía. Ông Ba cười khà khà, cầm cây búa lên coi rồi bảo:
– Đồ hiếm. Trên đời chỉ có một cây mà thôi.
Anh Hùng bèn nháy mắt ra hiệu cho Tú Linh, cô đến đóng vai Lục Tỷ rồi bảo xin cây búa đó, ông Ba cười, nói:
– Ờ, tưởng gì, Sáu mày cứ lấy đi, tao giờ dùng đâu nổi nữa.
Nói đến đó, ông Ba lại lên cơn, hét bảo rằng Lý Tổ sư về đánh ổng rồi ù té chạy ra ngoài, mất tăm vào cánh rừng đầy mồ mả tăm tối. Sinh bảo:
– Chết mẹ rồi đại ca, có khi nào vào đó còn gặp thêm Quỷ Sống không?
Ý Sinh đang nói đến cô công chúa, tức là chưa biết được “trùm cuối” trong kỳ động Kiên Lương là ai, đã vậy giờ còn nghe có cả Ca Lâu La trong đó. Tú Linh nói:
– Ít nhất giờ chúng ta có manh mối khá chắc chắn về nơi sắp đi, chưa kể có thêm đồ chơi khủng nữa kìa.
Nói đoạn, cô chỉ tay về cây búa. Tôi sực nhớ câu hỏi lúc trước, bèn đến nhờ anh Hùng giải thích nguồn gốc của nó. Anh giơ cán búa lên, vẻ mặt rất trân quý, rồi nói:
– Chính cây búa này đã tạo nên tên tuổi của Lỗ Ban Tiểu Tử – Ba Lành. Lấy than đá để trong quan tài đốt lửa, dùng thép nấu trộn với một ít xương đùi người và lông mọc ở đầu hổ. Thân búa làm từ lõi cây Long Đỉnh ngàn tuổi, lõi nằm ở rễ chỉ dài chừng hai tấc là đã quý. Lõi này dài đến năm tấc bảy phân, trên thân chạm khắc hoạ tiết rồng phượng, tượng trưng cho cả âm và dương. Anh nhớ không lầm, ông Ba Lành hồi xưa hay gọi nó là Đoá Thiên Phủ, nghĩa là Búa Chặt Trời.
Tôi thử cầm cây búa trên tay. Nó nặng đến lạ thường, dễ gì cũng phải hơn mười ký, thế mà anh Hùng cầm nhẹ như không. Tôi hỏi giờ anh không dùng nanh trăn nữa sao mà chuyển sang dùng búa. Anh chỉ cười rồi bảo đợi đó sẽ cho tôi xem. Chợt ông Ba bỏ chạy, để lại chúng tôi trong căn phòng toàn là hàng thượng phẩm lục lâm. Tôi nói “cầm nhầm” vài thứ nhưng bị anh Hùng la, anh nói lục lâm ai lại đi ăn cắp, tôi nghe xong hơi ngượng, lặng lẽ đi theo cả bọn xuống thuyền quay về.
Lúc lên thuyền, chúng tôi lại trao đổi về chuyện ông Ba hoá điên. Tú Linh cam đoan người đó là Ba Lành, anh Hùng cũng cho là đúng, vì cái áp khí kinh người mỗi lần ông hoảng loạn cũng đủ nói lên tay nghề không khác được của Lỗ Ban Tiểu Tử. Tuy nhiên tại sao ông ta cứ nhắc đến Lý Tổ sư? Lý Tổ sư mất khoảng giữa thế kỷ trước, Lục lâm đều thấy cả, vậy thì ai đến gặp Ba Lành mà ông ta lại cho rằng Lý Tổ sư quay về? Còn quá khứ về “Con Tám” – Tức đệ tử thứ Tám của Lý Tổ sư, chuyện đó như thế nào? Rốt cuộc Lý tổ sư là con người ra sao? Có quá nhiều câu hỏi ập đến, chúng tôi cứ loay hoay mãi chẳng thể nào hiểu được.
Anh Hùng chốt lại vấn đề, anh nói:
– Theo anh, mọi chuyện xảy ra từ đầu đến giờ khá là lạ và bí ẩn. Linh cảm anh cho rằng có gì đó không đúng, hay kiểu như có bàn tay ai đó sắp xếp, hiện giờ cứ cẩn trọng, chớ nên vội vàng khinh suất mà lại gặp hoạ. Anh tin nếu chúng ta cẩn thận thì không sao cả!
Nghe đến đó, chúng tôi phần nào cũng bớt nghĩ lại, nhưng cũng im lặng, chẳng ai nói câu gì nữa. Thuyền quay lại Hòn Củ Tron, trả cho Quý. Chuyện gặp Ba Lành còn sống, chúng tôi chẳng tiết lộ ra để tránh rắc rối. Sau đó anh Hùng cũng trả lại cái vô lăng cho ông Năm, dĩ nhiên là Sinh phải leo lên lắp vào lại cho lão.
Tôi quay sang hỏi anh Hùng:
– Tiếp theo mình đi đâu anh?
Anh Hùng ngồi thụp xuống cái lốp xe cũ, thở thuốc hắt ra, rồi nói:
– Thì đi Kiên Lương chứ đâu, giờ đủ dữ liệu rồi.
Nghe đến Kiên Lương, máu tôi như sôi lên khi nghĩ đến những gì sắp tới. Bỗng tôi sực nhớ lại, hỏi thêm về Ca Lâu Thành. Anh Hùng cho rằng, di chỉ chúng tôi gặp hôm bữa ngoài biển Hòn Sơn chỉ là một tháp canh hoặc một tiền đồn nhỏ, việc nó có ngọc rết thường đã nói lên điều đó. Thứ nữa là Từ Khoái có chép về hai mươi thành nằm dọc trên núi Địa Nguyệt Sơn, điều này giải thích tại sao anh cho rằng di chỉ dưới biển kia không thuộc hệ thống thành chính, còn địa danh Địa Nguyệt Sơn thì đúng là lần đầu anh được nghe, không biết nó ở đâu.
Mặc dù khu vực Hà Tiên – Kiên Lương cũng có khá nhiều núi, nhưng chúng nằm lẻ tẻ, rải rác, làm gì có dãy nào dài trăm dặm, rộng mười dặm. Có thể Từ Khoái nói quá lên chăng? Rốt cuộc vẫn không biết được.
Lát sau khi Sinh sửa xong vô lăng, anh Hùng đề nghị chú Năm chở cả bọn từ Hòn Sơn đi đến vịnh Cây Dương, Kiên Lương. Ông Năm đồng ý cái rụp. Chiếc tàu nhỏ lại lênh đênh lần nữa. Biển lần này khá lặng, gió mát, mọi người đều tranh thủ nằm ngủ một chút lấy sức trước khi đến Kiên Lương, tôi cũng chợp mắt theo.
Tiếng máy đều đều bỗng dưng chậm lại rồi tắt hẳn làm tôi tỉnh ngủ: chúng tôi đã đến nơi. Ông Năm để chúng tôi ở chợ Kiên Lương, mùi cá chợ chiều làm tôi khá khó chịu. Nhất mực không chịu nhận tiền dầu từ anh Hùng, ông Năm vẫn còn muốn cám ơn ngược lại chúng tôi. Sinh thấy vậy lẻn lên tàu, để lại tiền kế bên vô lăng rồi lấy hộp thuốc đè lên.
Chúng tôi ghé vào quán cóc bên đường uống ít nước đỡ khát. Kế hoạch là hôm nay sẽ nghỉ ở đây một đêm, sáng mai đi sớm. Tuy đã biết xác suất lớn đường vào nằm ở hang Mo So nhưng hang này có khá nhiều khách du lịch, không hiểu bằng cách nào mà lối vào không ai thấy được. Tạm thời chỉ đoán thôi, đợi mai vào xem thực địa vậy.
Lúc này, bàn kế bên đang có một nhóm khách du lịch có vẻ tiếc do định vào Mo So nhưng cảnh sát ngăn lại, bảo là đang huy động tìm người mất tích trong đó, tạm thời không cho vào hang. Thông tin này đối với chúng tôi mà nói là hết sức gay go, phen này chắc không thể đợi được đến sáng mai mà đi trong đêm mới mong qua mắt được bên cảnh sát và cứu hộ. Trong khi đó, Tú Linh bảo:
– Âm khí đằng đó nhả lên quá trời kìa. Không chừng hang Mo So nằm hướng đó…
Tôi đưa mắt nhìn theo, chỉ thấy trên nền trời trong xanh một làn khói mỏng, đều đặn phụt lên, tựa như ai đó đang thở trong khí trời rét buốt. Sinh uống ngụm Gò Đen, khà ra sảng khoái rồi nói:
– Săn lan thì săn lan, cũng phải từ từ với có chút rượu chứ!
Bỗng nhiên, từ phía sau chỗ chúng tôi ngồi, ông thợ sửa xe trung niên nói vọng lên:
– Săn lan mấy đũa? Ở đây có đũa vàng đũa bạc, nhưng không biết người mua đằng kia là ai?
Chúng tôi giật mình nhìn ra sau, ông lão vẫn giả vờ cặm cụi sửa xe, bỗng nhìn lên anh Hùng với ánh mắt dò xét.