Lần đầu tiên, bản chữ Quốc ngữ của truyện được xuất bản chung với bản dịch tiếng Pháp do Abel des Michels thực hiện, mang tên Lục Vân Tiên ca diễn: les poèmes de l’Annam, phát hành tại Paris năm 1883.
Truyện Lục Vân Tiên, hay thơ Lục Vân Tiên như cách người miền Nam thân quen gọi, không chỉ là một cuốn tiểu thuyết luân lý mà còn là bức tranh sống động về đạo làm người. Với tinh thần văn dĩ tải đạo, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm trong từng câu thơ hình ảnh những tấm gương xưa, nhằm khơi dậy nơi người đọc lòng trân quý cương thường, đạo nghĩa.
Điều đặc biệt ở tác phẩm này, bên cạnh những tư tưởng cao đẹp quen thuộc, chính là nét chân phương, mộc mạc của tâm hồn người miền Nam. Trong đó, nổi bật nhất là tinh thần trọng nghĩa, một phẩm chất đẹp đẽ mà tác giả đã khéo léo thổi hồn vào từng dòng thơ, làm nên sự sống động và gần gũi đến lạ kỳ.
Theo Từ điển Hán Việt, học giả Thiều Chửu giải thích nghĩa là “định liệu sự vật hợp với lẽ phải, làm việc không có ý riêng của mình, lấy ân cố kết với nhau”. Theo định nghĩa đó, nền tảng của nghĩa có hai, một là lẽ phải, hai là cái ân mà mình đã chịu.
Khi du nhập đến Việt Nam, khái niệm nghĩa của Nho gia đã kết hợp với những đặc trưng trong tính cách của người Việt, nó gần gũi với chữ tình hơn cả. Nghĩa còn là “quan hệ tình cảm thủy chung, phù hợp với những quan điểm đạo đức nhất định”
Với tính trọng âm ở Bắc bộ, con người ta đã quen với lối sống ổn định, con người ta đã biết nhau rất rõ và cũng có nhu cầu giúp đỡ lẫn nhau đã tạo nên tình trọng tình. Khi di chuyển vào Nam Bộ, là vùng đât mới, con người ở đây là con người từ tứ xứ đổ về không quen biết nhau. Nhưng vì là đất mới, nên con người ta càng cần phải yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Tính cộng đồng làng xã ở Bắc Bộ truyền thống trên cơ sở tình nghĩa đã chuyển thành tính cộng đồng xã hội. Chữ nghĩa đã được đặt lên hàng đầu trong cuộc sống của người dân nơi đây.
Nếu thiên nhiên ở đây khắc nghiệt với con người thì thiên nhiên cũng hết lòng hậu đãi con người. Ở đây không có khí hậu quá khác biệt giữa các mùa, cũng không có những cơn lũ dữ dội như ở ngoài Bắc. Con người ở đây cũng không cần phải quá lo lắng về cái ăn. Thiên nhiên nơi đây ưu đãi con người đến mức mà học giả Nguyễn Hiến Lê đã ghi lại trong cuốn Bảy ngày ở Đồng Tháp Mười rằng “[…] phát vài công đất ở sau nhà, sạ một vài giạ lúa là có dư lúa ăn suốt năm. Cá nhiều tới nỗi con nít cầm một cây đinh ba nhỏ đi đâm một lúc về cũng được một xâu cá, đàn bà ngồi rửa chén thấy cá lội ngang thường chém được con cá lóc lớn bằng bắp chuối”. Bởi như thế, nên con người ở đây ít phải lo toan, có điều kiện để không đặt nặng vấn đề tài chính để mà sống với nhau chân thành, giản dị, hết lòng vì việc nghĩa.