Trước là xương máu đồng bào rỉ rả vào sông núi, sau là oan linh chưa ngơi nghỉ của trượng phu, người con gái ấy đã hiệu triệu muôn phương vùng lên tranh đấu. Từ đây thân gái dặm trường, một góc trời hô phong hoán vũ, đánh cho Tô Định mất mật tháo về. Ngọn cờ nương tử phất lên, đưa Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành trì Lĩnh Nam quy về một mối, mở ra một buổi thời tự trị. Để rồi sơn hà giành lại nhưng thời đẹp chớm tan.
Một người đàn bà phương Nam xưng vương là cái gai, là “nữ tặc” trong mắt thiên triều. Uy danh Hai Bà khiến tập đoàn đô hộ phương Bắc phải cử một trong những viên tướng sáng giá nhất bấy giờ là Phục Ba tướng quân – Mã Viện nam chinh sát phạt. Trước là thế giặc ồ ạt như vũ bão, sau là lũ tiểu nhân mưu sâu hai lòng, Hai Bà Trưng thân cô thế cô đành lui về miền Cấm Khê, tuyệt vọng vẫy vùng trong cái bại đã định.
Trước hết, những gì còn được lưu giữ về Trưng Nữ Vương trong các thư tịch, huyền sử và chính sử ẩn nhẫn kể lại cho chúng ta nghe những góc nhìn khác nhau, biến chuyển theo trí tưởng tượng và mục đích người hồi tưởng.
Năm 1272, Lê Văn Hưu của nhà Trần lần đầu đưa Hai Bà Trưng vào bộ quốc sử đầu tiên của nước ta – Đại Việt sử ký, tạo tiền đề tư liệu cho các bộ sử về sau. Bộ sử đã thất lạc trong cuộc tàn phá văn hóa thời Minh thuộc, nhưng qua những gì Ngô Sĩ Liên tập hợp và kế thừa trong Đại Việt sử ký toàn thư, ta phần nào thấy được bối cảnh thời đại và góc nhìn của sử gia Việt.
Suy xét sâu xa các tình tiết sử gia Việt bổ sung và nhấn mạnh, ta nhận ra nhiều thêm tầng ý nghĩa ẩn chứa. Ở đó, sự thất bại Vua Bà đâu chỉ bởi thế giặc mạnh mà vốn dĩ lòng người đã tan tác trong niềm tin mỏng manh về người cầm quyền là phụ nữ. Hơn cái cả nhìn gay gắt về giới tính là bài học về sự đồng lòng trong bối cảnh nền tự trị đang bị đe dọa trước vó ngựa Mông Nguyên.
Tưởng như là một sự đề cao nữ quyền ngay dưới ngòi bút của một Nho gia dưới bóng thánh giáo, trong một thời đại trọng nam khinh nữ là thói đời. Nhưng hơn hết, đánh giá cao những đức tính tốt đẹp của của bậc anh thư giúp sử gia đại diện cho quân chủ thắp lửa tinh thần, hiệu triệu toàn dân đứng lên chống giặc Nguyên hùng mạnh.
Nhưng ngược dòng về những năm 40 đầu Công nguyên ấy, có lẽ các hậu duệ của mẹ Âu Cơ vẫn còn quen thuộc với văn hóa mẫu hệ và xa rời những áp đặt về nếp sống phụ hệ của tập đoàn đô hộ phương Bắc. Ở xứ sở đó, không cần cái lẽ của thù nhà, nhân dân vẫn sẵn sàng đi theo một người phụ nữ, vì thiên tư, cũng vì nghĩa lớn của bà.