Lục Vân Tiên cổ tích truyện: Sự gặp gỡ giữa Đông và Tây – Kỳ 2

Tác giả xnghiem
Lục Vân Tiên cổ tích truyện: Sự gặp gỡ giữa Đông và Tây – Kỳ 2

Mô tả bản truyện Lục Vân Tiên có tranh minh họa

Lời đề dẫn của Thư viện Viện Pháp (Bibliothèque de ľInstitut) mô tả tác phẩm Ms 3816 như sau:  Phần văn bản được bao quanh bằng các bức tranh màu và được đánh số tờ từ phải qua trái, mỗi tờ đều có giải thích bằng tiếng Pháp theo bản dịch của Abel des Michels: 282 tờ mặt trước khổ 30 x 21cm.

Phần bài viết được in cả hai mặt trên 53 tờ giấy rất mỏng với khổ 16 inch và được đánh số tờ từ phải qua trái. Đây là toàn bộ truyện thơ bằng chữ Nôm.

Món quà trao tặng này gồm hai phần riêng biệt. Phần thứ nhất là bản in truyện thơ viết bằng chữ Nôm. Bản truyện thơ này có khổ truyền thống (18,3 cm X 10,7 cm, dày 1cm), được in đen trắng trên giấy dầu từ mộc bản và được đóng lại bằng dây mảnh, theo đúng với cách in  tài liệu vào thời đó. Đây là bản in mà Lê Đức Trạch đã dựa vào đó đề vẽ tranh và đặt tựa đề Vân Tiên cổ tích tân truyện. Lăng Vân Đường in lại bản này vào mùa xuân năm thứ nhất dưới thời vua Đồng  Khánh (1886) và chắc chắn đây 1à bản lưu hành rộng nhất và dễ tiếp cận nhất ở Huế vào thời đó. Khi đọc, ta nhận thấy bản truyện thơ này không hoàn toàn giống với bản của Abel des Michels. 

Chính vì lý do đó mà ngay sau khi nhận được bản truyện thơ Lục Vân Tiên có tranh minh họa, Gibert đã xác định những điểm khác biệt giữa bản truyện thơ đối chiếu (Abel des Michels, 1883) và bản truyện thơ mà nghệ sĩ dựa vào đó để vẽ tranh (Lăng Vân Đường, 1886). Gibert cũng nhận thấy những điểm khác biệt này không gây ra sự chênh lệch giữa lối thuật chuyện và các hình minh họa. Sau khi kiểm tra, ông nhận thấy những điểm khác biệt nằm ở một số chi tiết và không ảnh hưởng đến tính chất của công việc dự tính ban đầu.

Cần khẳng định rằng bản in mà Gibert mang về Pháp không chỉ đơn thuần là một tài liệu phụ hoặc bản phụ lục dùng để thực hiện tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên có tranh minh họa, mà nó còn là một bản in quý về tác phẩm Lục Vân Tiên. Điều này góp phần làm phong phú thêm số bản in của truyện thơ như đã đề cập.

LucVanTien

Dĩ nhiên, phần chính của món quà tặng này là tập thứ hai bao gồm toàn bộ các trang truyện thơ có tranh minh họa. 

Người nghệ sĩ đặt tựa đề cho tác phẩm này là Vân Tiên cổ tích truyện. Tác phẩm được ghi hoàn thành ngày 18/6/1897 âm lịch, 28/7/1897 dương lịch tức năm Thành Thái thứ 9. Như  vậy, người nghệ sĩ đã hoàn thành tác phẩm đúng hai tháng trước khi Gibert mang nó về Pháp. Tác phẩm này có khổ khác thường (30cm x 21 cm, dày 9,5cm) vì sử dụng giấy Canson Montgolfier có thể thấm màu nước rất tốt và giữ được màu. Phần trọng tâm của tác phẩm được làm bằng loại giấy dành cho tranh màu nước, có trọng lượng lớn, khổ raisin (50 x 60 cm) được cắt lại và gấp thành hai tờ (khổ 2, tức 4 trang). Do cách gấp thủ công, nên 139 tờ sách có khổ không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, khổ trung bình của một tờ sách là 28 cm x 20,5 cm. 

Tiếp theo, trước mỗi một trang tranh màu (ở các trang 1 và 3 của khổ hai) có chèn một trang giấy trắng thường, hơi to hơn. Chất lượng kém hơn và sản xuất tại địa phương, 143 tờ bổ sung này được dán trên suốt chiều dài ở trang mặt sau bên phải (phía đóng bìa) của những trang vẽ tô màu bằng một dải băng rộng 5mm, đối diện với chúng là những lời bình chú của Gibert. Trang tiêu đề và hai trang giới thiệu bằng tiếng Pháp cũng được viết trên loại giấy này. 

Cuối cùng, một tờ giấy pơ-luya được thêm vào để bảo vệ mỗi trang vē tô màu. Những tờ giấy pơ-luya này cũng được dán trên suốt chiều dài ở trang mặt sau bên trái (cũng phía đóng bìa) của những trang vẽ tô màu bằng một dải băng rộng 5 mm. 

Như vậy, có ba loại giấy với chất lượng khác nhau tạo thành bản thảo gồm 69 tay sách khâu tay và chúng được nối lại với nhau ở hai điểm. 67 tay sách hoàn toàn giống nhau gồm 4 tờ (hai trang tô vẽ màu, hai trang giấy trắng được dán ở mặt sau và hai tờ giấy pơ-luya được dán ở mặt trước nhưng không được đánh số trang trong bản thảo). Duy nhất chỉ có tay sách đầu tiên và tay sách cuối cùng có 7 tờ (3 tờ đầu là truyện thơ còn 4 tờ tiếp theo được vě  ở phía trên) và 3 tờ giấy trắng duy nhất. Toàn bộ tác phẩm được bảo vệ bằng một bìa cứng dày 4mm  bằng vải màu xanh lơ được bọc một tờ giấy màu đen giống với da cá.

Hoàn toàn giống như bản in, bản truyện thơ Lục Vân Tiên có tranh minh họa được làm theo cách đọc cổ điển của chữ Hán ở châu Á, nói cách khác là đọc từ phải qua trái, ngược với cách đọc của phương Tây. Bìa còn nguyên, không in chữ. Ở mặt trước của trang thứ nhất, Gibert dán phần ghi chú viết tay đề ngày tháng và mục đích trao tặng. Ở mặt sau của trang đó, ông cũng dán một mẩu giấy ghi tiêu đề tác phẩm và tên người nghệ sĩ bằng chữ Quốc ngữ. Trên mặt trước của trang thứ hai, Gibert ghi lại thông tin này bảng tiếng Pháp, ghi thêm chức vụ của người tặng, địa điểm và ngày thực hiện tác phẩm. Ở hai trang tiếp theo, ông viết phần giới thiệu giải thích lý do đặt làm tác phẩm lý do và điều kiện thực hiện. Cuối cùng, ở mặt sau của trang thứ ba. Ông dán một mẩu giấy khác viết vội tên của các vị thần xuất hiện ở trang tranh vẽ đầu tiên, đó là 8 vị tiên bất tử của đạo Lão (Bát tiên).

LucVanTien
LucVanTien

Sau 3 tờ đầu bằng giấy thường, người đọc thấy ngay mặt trước của tờ Canson đầu tiên trên đó có lời  bình chú ngắn của Gibert viết bảng bút chì. Đó là những ghi chép mô tả ngắn gọn tờ tranh vě màu ở mặt sau. Phía trên bên trái, Gibert đánh số tờ bằng mực đen (“Tờ số —“) rồi ký xác nhận sau khi chắc chắn đã xếp đúng các tờ tranh và nhận toàn bộ tác phẩm. Tờ tranh tô màu ở mặt sau được bảo vệ bằng một tờ giấy poluya, rồi chèn thêm một trang giấy trắng thường.

Ở mặt trước của trang này, tức là trang đối diện với tờ tranh, Gibert viết bằng mực đen lời bình chú chi tiết và dễ đọc hơn. Những lời chú giải cũng được đánh số giống như số của tờ tranh và mở rộng hơn nội dung phần bình chú viết bằng bút chì, chỉ rõ những câu thơ (đánh số theo bản của Abel des Michels) có tranh minh họa, diễn đạt rõ ràng hơn bản văn hoặc các hình ảnh và ghi lại những điểm khác biệt giữa hai bản truyện thơ như đã nói ở trên. Mặt sau của trang giải nghĩa này không ghi gì. 

Tác phẩm được trình bày theo trật tự đều đặn, cứ một tờ giấy Canson Montgolfier (ghi bảng bút chì ở mặt trước, tờ tranh màu ở mặt sau), rồi đến một tờ giấy pơ-luya và sau đó là tờ giấy tráng (chú giải bằng mực ở mặt trước và không có gì ở mặt sau). Trang cuối cùng là một trang trắng: ở mặt trước ghi chú giải của tờ tranh cuối cùng, một ghi chép ngắn được dán ở mặt sau ghi rõ tựa đề tác phẩm, ngày tháng sáng tác, đối tượng trao tặng và giấy căn cước của người tặng bằng tiếng Pháp. Nên lưu ý rằng tiểu dẫn này được cố ý dán ngược. Mã của bản thảo Ms 3816 cũng được viết trên mặt trái của bìa thứ tư nhưng theo chiều ngược lại nhằm báo cho người sử dụng khi họ giở tác phẩm bằng tay như một cuốn sách phương Tây.

Gibert đánh số trang tác phẩm không theo từng trang, không theo từng tờ mà theo tranh vẽ. Tổng cộng có 139 tờ tranh. Tuy nhiên, việc đánh số kết thúc ở tờ số 134 tương ứng với tờ tranh minh họa cuối cùng do Lê Đức Trạch vẽ. Năm tờ tranh còn lại do người nghệ sĩ thứ hai vẽ. Chúng được thêm vào sau đó và đánh số theo hệ thống đối chiếu giúp tìm thấy vị trí của các tranh này dễ dàng hơn trong tập truyện thơ (các tờ tranh từ số 85 bis đến số 89 bis, tù câu 1270 đến câu 1372). Khi di tặng này được đăng ký và sau khi Viện Pháp đóng dấu thư viện lên mỗi tờ, tác phẩm được đánh số trang lại từng tờ một (282 tờ của tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên có tranh minh họa và 53 tờ của bản in truyện thơ Lục Vân Tiên). Đánh số bằng bút chì màu xanh dương ở phía trên bên trái mỗi trang mặt trước. Viện Hàn lâm đóng dấu nhập di tặng (89857) ở tờ cuối cùng của tác phẩm và ghi ký hiệu (Ms 3816) chính thức đưa tác phẩm vào bộ sưu tập của Viện.

Đi vào chi tiết các trang vē, ta sẽ thấy tờ tranh đầu tiên là trang bìa của tác phẩm có một hình minh họa duy nhất là Bát tiên bao quanh một khung trổ thủng. Trên đó, ta có thể đọc được tựa của tác phẩm, tên nghệ sĩ vẽ tranh minh họa, ngày và địa điểm thực hiện. Những tờ tranh tiếp theo đều có bố cục giống nhau.

Trước hết, phần chữ của truyện thơ được chép lại bằng mực đen nằm trong khung hình chữ nhật ở giữa trang được vẽ bằng bút chì và được chia thành từng cột. Truyện thơ được đọc từ trên xuống dưới, bắt đầu từ cột ngoài cùng bên phải. Số câu, số chữ và số cột ở mỗi tờ tranh khác nhau; tương tự như vậy, cỡ khung cũng thay đổi. Trừ một số ngoại lệ, ta thấy có sự nhất quán ở phần đầu và  phần cuối: mỗi tờ tranh gồm 16 câu thơ xếp thành 8 cột, mỗi cột 14 chữ, mỗi cột là một đoạn thơ lục bát 6 – 8 âm tiết. Khi người nghệ sĩ thấy cần phải dành nhiều không gian cho phần bài, thì có thể bố trí các cột không theo quy tắc. 

Như vậy, đối lập với bản in trong đó phân chia rõ ràng những câu thơ 6 (phần phía trên của trang) và những câu thơ 8 (phần dưới), mối quan tâm hàng đầu của Lê Đức Trạch là tái hiện lại toàn bộ truyện nhưng phải tuân thủ đúng theo chỗ ngắt bắt buộc của lối kể chuyện có tranh minh họa dù phải vi phạm lỗi chỉnh trang truyền thống của phong cách thơ này.

LucVanTien
LucVanTien

Hai đồng nghiệp người Việt Nam là bà Trần Xuân Ngọc Lan và ông Nguyễn Hiến Tâm đã nhận phiên âm sang chữ Quốc ngữ bản chép lại của Lê Đức Trạch. Theo nghiên cứu của ho, bản chép này chỉ sử dụng bản in tại Lăng Vân Đường. Những so sánh tỉ mi của họ cho thấy có một số thay đổi vô tình hoặc cố ý giữa bản in và bản do nghệ sĩ chép lại vào năm 1897. Những sự thay đổi này có vẻ phụ thuộc vào hai sự việc

– Người nghệ sĩ muốn “điều chỉnh” bài thơ theo ý của mình bằng cách thay đổi một số chữ giản lược mà ông cho là sai hoặc không phù hợp;

– Ông đã viết một chữ có nghĩa giống nhau nhưng cách viết định rõ cách phát âm phương ngữ. 

Tất nhiên, những chỉnh sửa này rất  nhỏ và nhìn chung chỉ là những thay đổi về âm vị nhiều hơn là về ngữ nghĩa.

Sau khi phân đoạn truyện thơ và chép lại phần bài vào giữa trang, người nghệ sĩ đã định ô cho mỗi  hình minh họa. Một khung bên ngoài bao quanh tờ giấy có lề rộng khoảng 1cm được để trống. Ở lề bên phải, đôi khi nghệ sĩ đánh số tờ bằng một nét thanh theo kiểu chữ Hán. Sau khi vẽ họa tiết bằng bút vẽ, Lê Đức Trạch chuyển sang tô màu nước. Nhìn chung, thường có bốn họa tiết cho mỗi trang nhưng chúng có thể nhiều hoặc ít hơn tùy vào mức độ gợi hình của đoạn trích. Vị trí của họa tiết lúc ở trên, lúc ở dưới, lúc bên phải và lúc bên trái của phần bài, không phải lúc nào cũng theo một trật tự dự kiến trước. Ông tìm cách tối ưu hóa không gian có được: những hình vẽ ở phía trên và ở phía dưới phần bài thường là vẽ toàn cảnh và làm cho tờ tranh có chiếu sâu, đặc biệt khi đó là tranh phong cảnh. 

Những hình vẽ ở hai bên thường đi vào chi tiết địa điểm, nhân vật hay hành động. Khi thấy cần thiết, nghệ sĩ viết vài câu để giúp người đọc hiểu rõ một số họa tiết. Mỗi họa tiết thường được dựng trong một không gian xác định nhưng có một vài họa tiết đan xen vào nhau nhất là khi miêu tả phong  cảnh. Ngược lại, một số họa tiết lại chia thành nhiều hành động và không gian nhỏ. Khi có thể, nghệ  sĩ không chỉ minh họa truyện thơ bằng các sự kiện kế tiếp nhau một cách máy móc mà còn tìm cách sáng tác những tờ tranh với mục đích làm cho cách kể chuyện được trôi chảy nhát và tạo nên sự thống nhất về màu sắc. Có tất cả 663 họa tiết được nghệ sĩ vẽ ra.

Tuy không được chuẩn bị thật tỉ mỉ, nhưng công việc vē tranh minh họa cuối cùng đã được thực hiện rất tốt. Bản thân một số tranh và họa tiết có bố cục như những tác phẩm nghệ thuật thực thụ.

Chia sẻ câu chuyện này
Share