Tháng giêng giai tiết ở đầu. Bao nhiêu mỹ nữ đá cầu, đánh đu.
Cánh đu ngày xuân hiện diện trên những bãi cỏ bên sân đình, chùa hoặc miếu của thôn làng như một biểu tượng của tín ngưỡng phồn sinh. Cánh đu dao động, nảy nở xuân tình.
Xuân về, mây đen đã tan hết vào những trận mưa cuối mùa. Trời xanh và trong như gương. Đất trời nhuốm tràn sắc xanh mơn mởn của mạ non, mầm cây, ngọn cỏ. Nơi làng quê bình dị lọt thỏm giữa một góc đồng bằng châu thổ, những phướn cờ ngũ sắc được phất lên giữa xanh um, trên khắp các nóc chùa, mái đình, cây nêu, và cả cánh đu ngày Tết.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Ất Tỵ, năm thứ tám niên hiệu Đại Trị đời Trần Dụ Tông (1363)…, mùa xuân, tháng Giêng, người Chiêm Thành đến bắt dân ở châu Hóa. Hàng năm, cứ đến mùa xuân tháng Giêng, con trai, con gái họp nhau đánh đu ở Bà (Đà?) Dương. Người Chiêm Thành khoảng tháng 12 năm trước, nấp sẵn ở nơi đầu nguồn của châu Hóa, đến khi ấy ụp đến cướp bắt lấy người đem về”.
Thế kỷ 14 đã ghi nhận sự thịnh hành của trò đánh đu ở nước ta. Dù đánh đu không phải là nội dung trọng điểm mà đoạn trích muốn thuật lại, nhưng nó khiến người đọc phải thắc mắc sức hút nào ở cánh đu, khiến trai gái mải chơi đến độ bị bắt cướp đem về xứ người?
Đi tìm lời giải cho sức mê hoặc của cánh đu, có lẽ ta phải vén lên những nhánh tre làng, len lỏi vào làng quê Việt, tìm về không gian thần diệu của cánh đu những ngày xuân xưa cũ.
Trò đánh đu xuất hiện ở góc phải bức "Thuận Hóa tiết nhật chi nhật", vẽ cảnh ngày hội ở Thuận Hóa (kinh đô Huế) bởi các họa sĩ hoàng gia, khoảng thời gian vua Thành Thái và Duy Tân (1900 - 1910). Ngoài trò đánh đu, lễ hội còn có các trò đu quay, leo cột mỡ, đặc biệt là trận đấu voi hổ được tổ chức trước Phu Văn Lâu.
1. Cánh đu cố kết
Trong ký ức của những người tự thân kinh trải, từ tháng Chạp, khi thảm cỏ còn nhiễm sương, ẩm mềm và ngai ngái mùi đất tươi, thì đám thanh niên trong làng đã rục rịch chặt tre làm đu. Các anh chọn những thân tre mập mạp, độ tuổi cũng tráng niên phơi phới như các anh, kéo lê đi khắp nẻo làng. Thân tre loạt xoạt quét lên đường làng, làm bụi rơi vào mặt những em thôn nữ vẫn còn tất bật đi trâu ven đồi, làm cỏ dưới ruộng, hay bán hàng Tết cạnh làng.
Xẩm tối, mát trời, chuyện đồng áng gác lại, là lúc thích hợp để trồng đu. Xướng mạ đầu thôn, ngay cạnh đường cái, hướng dân làng xuất hành đi chúc Tết họ hàng và cũng là nơi đón khách từ nơi khác đến thường là nơi được chọn để trồng đu. Và tự buổi trồng đu, không gian cố kết các thế hệ người làng đã được khai mở.
Các cụ già, các bậc trung niên lão thành là những “cố nhân” có nhiều kinh nghiệm và kỷ niệm với cánh đu hơn ai cả đóng vai trò là người hướng dẫn. Trong khi các anh tráng niên khỏe khoắn làm “thợ” trồng đu chủ lực.
Hai cặp thân tre, từng cặp được buộc chéo thật chặt vào nhau. 4 gốc tre sau đó được chôn chặt vào các hố đã được đào sẵn, dựng đứng lên cho áp sát vào nhau, đầu ngọn của hai cặp bắt chéo lại được cột chặt vào nhau tạo thế giằng liên hoàn rất chắc chắn.
Hệ thống ròng rọc (xúc xích) với những con xỏ, dây tre cuốn sẵn buộc chặt lấy bộ phận khớp đu. Từ đây nối với hai thanh tre ngay thẳng, dẻo dai mà rắn chắc, buông dài xuống gần mặt đất, được gọi là tay đu. Phía dưới hai tay đôi được nối liền với nhau bằng một chiếc bàn gỗ để người chơi đứng lên, gọi là bàn đu.
Trò đánh đu trong bộ ảnh của Samuel Baron về Đàng Ngoài
Già trẻ phối hợp ăn ý, chẳng mấy chốc mà cây đu đã sừng sững chồi lên. Đỉnh đu phất phơ ngọn cờ đuôi nheo ngũ sắc, bàn đu lửng lơ nhẹ nhàng. Việc trồng đu hoàn tất, ai về nhà nấy, để lại đám trẻ con hưng phấn hò hét quanh đu.
Trước khi dấn thân vào cuộc chơi, dân làng sẽ đặt một cái lễ nho nhỏ trên bàn con dưới gốc đu để cúng các vị thần linh. Đồ cúng thường là đĩa xôi, nải quả, cút rượu; năm nào sang thì có thêm con gà luộc. Một bậc cao niên đóng vai trò chủ tế, thắp hương khấn Thổ công, Thành hoàng phù hộ cho dân làng năm tới được mùa, tai qua nạn khỏi; đồng thời yểm trừ tà ma, tránh điều xúi quẩy và rủi ro quanh gốc đu.
Không gian tế lễ bao giờ cũng linh thiêng, cánh thanh niên thin thít lặng nghe. Hương tàn, lễ hạ, cánh đu cũng hòa vào lòng người, sẵn sàng để đánh khai xuân và nhập cuộc xuân tình.
2. Cánh đu xuân tình
Một khi cây đu được dựng lên, nó hoạt động như một cột thu lôi, thu hút hết thảy lòng xuân, sức trẻ tụ về quanh mình. Quanh bãi đu, bao giờ cũng có vài đám trai gái làng trên xóm dưới vây quanh, chực chờ tới lượt đánh đu.
Chơi đu, chỉ việc đứng lên bàn đạp, tay nắm vào dải đu tầm ngang ngực, nhún nhẹ là đã có thể đung đưa. Nhưng để đánh đu cho bổng cho đẹp thì lại là chuyện khó, đòi hỏi sự dũng cảm và khéo léo cao.
Dũng cảm để thắng cái cảm giác không trọng lượng và khéo léo để điều hòa nhịp điệu nhún đu. Khi đu bay lên vừa điểm dừng, sắp sửa hạ xuống thì bắt đầu nhún. Nhún không sớm không muộn hơn độ ấy, nhún chậm rãi nhưng phải mạnh và dứt khoát. Nhún chuẩn chỉnh đu mới chóng bổng.
Những cao thủ chơi đu mang trong mình sức dẻo và máu liều đến hoang dại. Cái tình nồng nhiệt buổi xuân thì có thể đưa bổng cánh đu vượt qua cả suốt ngang trên cùng, nghĩa là dải đu quét một góc lớn hơn 180 độ, thậm chí là giựt giải treo tít trên đỉnh đu.
Đánh đu khi ấy không còn đơn thuần là một trò chơi nữa, mà là một trò thượng võ cho nhựa xuân tràn trề trong mỗi thanh niên làng được bộc phát. Cánh đu bay vút lên thiên không, đưa người đánh đu bước vào trạng thái lâng lâng như đang bay vào không trung. Và rồi khi đu rơi xuống, ở trạng thái rơi tự do, con người cảm thấy bỗng chốc mình trở nên nhẹ bỗng như thoát tục. Cái cảm giác sợ hãi một mà kích thích mười này càng thêm bội phân khi đu đôi.
Cánh đu xuân tình trong tranh Đông Hồ và trang trí gốm sứ
Nếu đánh đôi thì bốn bàn chân của hai người đừng lên bàn đu kiểu so le. Hai tay của cô gái nắm chặt vào hai tay đu. Hai tay người con trai cũng bám vào tay đu nhưng ở vị trí cao hơn hoặc thấp hơn một chút. Hai người giáp mặt vào nhau trong tư thế vòng tay siết. Đó có thể là đôi nam nữ đang yêu nhau. Cũng có thể là một đôi mới được mọi người ghép cặp. Ngày xuân, họ đứng đối mặt vào nhau mà trình diễn những màn đu đôi đặc sắc.
Trước hết, họ đưa cánh đu là là để chào mọi người xung quanh như kiểu múa tế tổ trước khi vào keo vật của hai đấu thủ trên sởi vật. Sau đó họ mới đu lên cao, bay bổng. Chàng trai vươn người lên đu bổng. Cô gái ưỡn hẳn mình ra, nhún đu. Họ bay lên bay xuống nhịp nhàng rồi thỉnh thoảng lại vút lên cao.
Những động tác nhún đu của đôi trai gái lúc này là cái nhún của mùa xuân. Mùa xuân chảy tràn nhựa sống cho vạn vật sinh sôi. Mùa xuân làm bàn đu cả ý tình lứa đôi cất cánh. Cánh đu vút lên rồi hạ xuống không ngừng tựa như vũ trụ vận hành theo chu kỳ, chia ra trời đất – âm dương. Người trên đu thổi gió, gió giao hòa với mặt đất màu mỡ. Đu càng cao, tình càng nồng, ruộng đồng càng được mùa lúa thóc.
Trò đánh đu trong các lễ hội mùa xuân ở Việt Nam
Theo những vòng cung xé gió, cánh đu như con tàu vũ trụ, đưa lứa đôi bước vào một không gian riêng, một kết giới thăng hoa. Thăng hoa lòng người, thăng hoa cả đất trời. Họ như say, như sưa, ra sức mà nhún đu. Họ chẳng nói gì với nhau nhưng trên cánh đu, tim đập rộn, tình thêm kết. Họ nghe thấy nhịp thở của nhau có mùi thơm hòa hợp với mùi thơm của mùa xuân. Họ ngửi thấy hơi nhau. Họ gần như thuộc về nhau trong giây phút bằng cả trăm năm này.
Dường như cánh đu đã mở ra một bức tranh siêu tuyệt giữa mùa xuân tràn trề nhựa sống. Vây quanh bãi đu, người người mang đôi mắt sáng ngời. Tài tử giai nhân lụa là xinh đẹp. Nam chít khăn nhiễu, áo xa đen, quần trúc bâu trắng. Cô gái có tà áo đỏ, xanh, giải thắt lưng hồng đào phất phơ. Áo cánh trắng bên trong làm nổi chiếc yếm thắm, quần lĩnh đen bóng.
Trai du gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng cong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới Hai hàng chân ngọc duỗi song song ...
Không chỉ gái trai đánh đu rơi vào trạng thái hưng phấn cao. Người xem, người thưởng thức ở bãi đu cũng reo ầm ĩ, trầm trồ, cười nói trong tiếng trống giục liên hồi. Trai anh hùng, gái thuyền quyên dập dìu trên dải đu, quanh bãi đất. Mà chính sức sống trong lòng người làm nên sức sống dải đu.