Chuyện các Bà Chúa nội phủ nhà Trịnh – Kỳ 2: Đức Bà Vàng

Tác giả Tường Vân
Chuyện các Bà Chúa nội phủ nhà Trịnh – Kỳ 2: Đức Bà Vàng

Xưa nay, chuyện hậu cung luôn là đề tài hấp dẫn hơn cả, bởi cuộc sống chốn lầu quỳnh điện ngọc dường như cách xa hồng trần cả ngàn dặm, đem đến biết bao đồn đoán, ngưỡng mộ cùng ganh ghét đố kỵ trong con mắt người đời. Trái với quan điểm phổ biến cho rằng chuyện “thâm cung bí sử” không đáng để nhắc tới, thực chất qua một vài chi tiết nhỏ trong sách sử, nếp sinh hoạt chốn cung đình hiện lên sinh động hơn bao giờ hết, cho ta thấy lịch sử đâu chỉ có những chiến công oai hùng. Lịch sử còn là của con người, là những câu chuyện rất đỗi con người.

Đặt chân chốn hậu cung

Nếu như Bà Chúa Me có tài của một vị phụ chính, thì con dâu bà, Đức Bà Vàng lại là một người phụ nữ… không mấy truyền thống, thậm chí có phần ngang ngạnh vì được chúa Trịnh Doanh hết mực sủng ái. Bà chúa này cũng can dự vào triều chính, song ở mức độ thấp hơn, chủ yếu chỉ nhằm củng cố địa vị của mình trong nội phủ mà thôi.

Phụ nữ thời Lê Trung Hưng. Tranh thờ đền Độc Lôi

Đức Bà Vàng vốn xuất thân trong gia đình thế phiệt trâm anh, có cha là Luân Trung công Nguyễn Mậu Du, sinh quán tại làng Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương, xứ Thanh Hoa. Dòng họ Nguyễn Mậu của bà vốn là công thần nhà Lê Trung hưng, nên tên húy của bà lấy họ kép Nguyễn Mậu, còn có tên đẹp là Ngọc Vinh, có nơi chép tên khác của bà là Nguyễn Thị Bản. 

Do là tiểu thư lá ngọc cành vàng nên từ nhỏ bà đã được giáo dục tỉ mỉ, rất giỏi cầm kỳ thi họa lại có sở trường làm thơ Quốc âm. Khi tới tuổi trăng rằm, bà tiến cung hầu hạ nhà chúa, được chúa rất yêu vì sắc lẫn tài nên phong làm Chính cung Vương phi đứng đầu nội phủ. Tương truyền rằng làng văn thời bấy giờ không mấy ai là không biết tài thi ca của bà, nên bà càng được sủng hạnh nhiều lắm, bởi chúa Trịnh Doanh cũng là một người sành sỏi và sáng tác nhiều thơ Nôm. Vì chúa yêu quý bà phi như vàng, nên trong dân gian mới gọi bà là Đức Bà Vàng.

Sinh thời, bà chỉ có với chúa hai người con là Vương tử Trịnh Nhuận mất sớm và Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Nhuận, tục gọi là Bà Chúa Đỏ, được chúa Trịnh Doanh yêu quý một cách đặc biệt bởi sự thông minh mẫn tuệ, coi như hòn ngọc quý nâng niu trên tay. Do Vương tử mất sớm mà Đức Bà Vàng lại không có thêm con trai, nên ngôi Thế tử thuộc về Trịnh Sâm là con của bà Hoa dung Nguyễn Thị Ngọc Diễm. 

Lo xa trước cho ngôi vị của mình trong cung, bà chúa dùng sức ảnh hưởng của mình để tác thành Công chúa Ngọc Nhuận với Thái tử Lê Duy Vỹ, để thông qua người con rể sẽ làm vua trong tương lai, con gái bà trở thành mẫu nghi thiên hạ. Việc tính toán này khiến cho mẹ con Thế tử Trịnh Sâm rất bất bình, bởi Thái tử Duy Vỹ là người sáng suốt, luôn có ý giành lại thực quyền về tay dòng họ, nên là mối đe dọa ngầm tới thế quân bình quyền lực về sau giữa cung vuaphủ chúa

Căng thẳng giữa hai vị trữ quân bị đẩy lên cao trào nhất trong một dịp khi chúa Trịnh Doanh ban cơm cho cả hai, lại bảo cùng ngồi ăn chung mâm. Lúc ấy, Đức Bà Vàng bước ra dụ rằng:

Thế tử với Thái tử có danh phận vua tôi, lẽ nào được ngồi cùng mâm? Nên phân biệt ngồi làm hai chiếu

Lời nói đó như dầu đổ vào lửa. Thế tử Trịnh Sâm phẫn nộ lắm, đổi ngay nét mặt mà bỏ ra về, lại nguyền rằng: “Ta với Duy Vỹ hai người, một phải chết một sống, quyết không song song đứng cùng nhau được”. Về sau, quả là Thái tử Duy Vỹ bị ám hại thảm khốc dưới tay chúa Trịnh Sâm, nhưng đó là một câu chuyện khác.

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình

Dự tính khôn ngoan là thế, song “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Sau lễ đính hôn không được bao lâu, Công chúa Ngọc Nhuận thọ bệnh qua đời, do đó Đức Bà Vàng không còn người con nào để nhờ cậy, nên thái độ của bà trở nên hòa hoãn ít nhiều với mẹ con Thế tử Trịnh Sâm, còn khéo léo lấy lòng vị Thế tử là khác. Tuy nhiên, bà vẫn ỷ thế được chúa yêu mà gây chuyện càn rỡ, không cho phép cung tần nào được hưởng ơn mưa móc của chúa; có lẽ bởi vậy nên nhà chúa Trịnh Doanh rất hiếm con. 

Đặc biệt một lần khi có người thiếp vào phủ hầu chúa, bà Chính phi trông thấy liền nổi cơn ghen, tiện tay cầm hộp trầu vàng mà ném, không may ném trúng người chúa. Chúa Trịnh Doanh giận lắm, sai người lấy khăn đỏ lót tay bà chúa mà đuổi ra ngoài, lại sai chôn lấp hết các vật dụng thường dùng của bà, coi như khuất mắt không màng đến nữa.

Chúa Trịnh Doanh trong Trịnh gia chính phả

Bị giam lỏng ngoài cung, bà chúa hối hận có làm hai bài thơ Nôm giãi bày nỗi lòng, nhờ người dâng lên chúa. Chúa xem thấy cảm động hết sức, lại cho triệu bà vào cung, đối xử như cũ. Đó là hai bài thơ duy nhất của Đức Bà Vàng còn lưu giữ được:

“Mọn mảy muôn trông đức cửu trùng
Trời cao đất rộng kể khôn cùng
Trâm gieo bệ ngọc còn e lệ
Hương bên phòng tiêu luống ngại ngùng
Đếm tóc chưa đền ơn thánh đức
Giắt tơ nay cậy sức thiên công
Khôn trình ước giãi niềm trung ái
Ngõ vẹn công sau đạo thuận tòng”.

Và một bài thơ khác dài hơn, lời lẽ rất mực thắm thiết:

“Trời cao muôn dặm thẳm xa
Quảng Hàn nỡ để Hằng Nga lạnh lùng
Tưởng nguồn cơn khéo chạnh lòng
Trách duyên, dám trách cửu trùng thắm phai.
Vả tôi kém sức, phạp tài
Nhằm thương muôn đội lượng giời chở che.
Xét mình bồ liễu le te
Dám rằng cù mộc dám khoe hảo cầu.
Phận thường mọn mảy nữ lưu,
Muôn trông xét biết ái ưu ghi lòng.
Sách vàng rỡ rỡ đề phong
Những mong xứng chỉ chút công báo đền.
Tuy rằng kỳ ngộ thiên duyên
Gót đầu toàn đội ơn trên tài bồi.
Non ân, bể đức bằng giời
Muôn phần báo đáp chưa vời một ly.
Trộm xem trên cả nhân nghì
Vậy nên ai-nấy bấc chì mỉa mai.
Tay đâu bưng được miệng ai
Nắng mưa cũng tiếng mỉa mai lọ là.
Thấy chiều thưa nguyệt phai hoa
Thừa cơ dễ khiến gièm pha nhiều điều
Nghĩ rằng đức Thuấn, nhân Nghiêu
Chở che dù có đăm triêu dày vò.
Chắc rằng sông núi hẹn hò
Hay đâu bể ái chút dò cũng hao.
Đạo mầu há dám rằng sao
Canh chầy võ võ lầu cao nguyệt tà.
Tưởng khi cầm sắt khúc hòa
Trăm năm cù mộc một nhà trúc mai.
Bây giờ tin diễn vãng lai
Cửa ngăn dây gió, nguyệt cài then sương.
Tưởng khi đầm ấm thiên hương
Ngửa trông một nghĩa để gương muôn đời.
Bây giờ gần bến xa rời?
Một lòng khôn ngỏ, nhiều lời nể-nang.
Tưởng khi lạm sánh nhà vàng
Nghìn vàng dễ chuốc một trường mộng xuân.
Bây giờ cách diễn ải lần,
Một bề trực đức chín lần khôn thâu.
Càng phen càng bối rối sầu
Ngu trung dễ thấu nhuộm mầu thiên cơ.
Cớ chi nên nỗi sinh sơ,
Bâng khuâng chí ước, ngẩn ngơ giạ phiền,
Ví còn chồi quế non Yên
Thì chi đến nỗi nhiều phiên thế này.
Nhởn nhơ song giạ khôn khuây
Buồn xem bế nữ nước mây thêm nhừng.
Nhiều phen lửa trận vang lừng
Bồ hòn đã đắng thì gừng lại cay.
Nào khi giá ngự bình tây,
Cần lao dám ngại gió lay sương hàn.
Dày êm gối biếng ngôi Càn
Tấc gang nỡ để mấy ngàn riêng tây
Vụng lầm vả tiếng một ngày
Nỡ cho kẻ mọn sánh bày rao ca.
Quản bao phận tiện dã hoa
Nữa trong thể thống quốc gia dường nào.
Dám xin tài quyết lượng cao,
Quyền cương nỡ để thay trao kẻ ngoài.
Vững phù mạch nước lâu giài
Dẫu sao thì cũng là người nhà vương
Trót đà lạm dự tào khang
Trị bình cũng lấy tam cang làm đầu.
Ngập ngừng kể lấy sự đầu
Bút hoa mấy chữ, lệ châu đôi hàng.
Cả lòng xin trước nhà vàng
Cậy gương nhật nguyệt rỡ ràng chiếu lâm.
Nghìn năm khắc cốt minh tâm.
Kẻo buồn nỗi chữ tình thâm thế cười.
Nền vương nghiệp rạng giữa giời,
May nhờ hồng phúc muôn đời lâu xa”

Đức Bà Vàng tuy phần nào… đành hanh, lăng lộng, không mấy nhu mì nhưng cũng không quá cứng rắn như Bà Chúa Me mà cũng không hề tâm cơ như Bà Chúa Chè Đặng Thị Huệ sau này. Nhìn chung, tính cách bà khá bộc trực, vô tư, ít nghĩ sâu xa trong cư xử thường ngày, ví như chuyện ném hộp trầu vàng hay buông lời thiếu tinh tế trong yến tiệc phủ chúa. Có lẽ nào vì thế nên nhà chúa mới yêu bà chăng, yêu chính sự đơn giản, không màu mè ấy? Dù lắm khi bà gây ra những chuyện dở khóc dở cười như Phạm Đình Hổ từng chép lại:

Bà Chính phi chúa Trịnh có người em tên là Mậu Dĩnh vốn là kẻ tầm thường. Bà phi muốn cho dự vào hàng văn thân; gặp kỳ thi hội, có mật bảo kẻ lại phòng xếp chữ soạn hiệu cứ quyển của Mậu Dĩnh đánh dấu vào. Lại dặn quan nội trường phải để ý tâng bốc cho, nếu kém lắm không lấy được thì đợi khi có chỉ chúa mở rộng đường cầu hiền, phải đem quyển ấy dâng trình.

 

Kỳ đệ tứ xong rồi, bao nhiêu quyển thi trúng cách đều đem tiến trình cả, duy quyển của Mậu Dĩnh thì không có trong số ấy. Bà phi bèn xin với chúa Trịnh rằng:

 

"Việc thi cứ mà cứ lấy mực thước làm hạn, sợ không được rộng. Xin chúa cho lấy những quyển văn chương uẩn súc đem tiến trình, để thiếp rút lấy một quyển cho rộng đường cầu lấy nhân tài"

 

Chúa cũng nể ý bà phi nên truyền đem quyển lên trình cho bà phi rút. Bà phi nhắm vào quyển có đánh dấu mà rút lấy, rồi lui vào bảo kẻ cung giám tin cho Mậu Dĩnh cứ việc sửa soạn tiệc ăn mừng. Đến khi dán quyển lại để yết bảng thì té ra là tên Võ Huy Dĩnh. Bà phi lấy làm quái lạ, mới hỏi kẻ lại phòng. Kẻ lại phòng thưa rằng:

 

"Khi nhận lời dặn, tâm thần hoang mang, nhớ không được rành, khi soạn quyển chỉ nhớ dặn tên Dĩnh, nên đem quyển ấy đánh dấu, không ngờ lại hóa ra lầm lẫn"

 

Bà phi than thở, lấy làm lạ.

Phạm Đình Hổ - Vũ trung tùy bút

Tới cuối đời, Đức Bà Vàng vẫn được hưởng phúc trạch sâu dày tựa câu thơ Bạch Cư Dị: 

Hậu cung giai lệ tam thiên nhân 
Tam thiên sủng ái tại nhất nhân

Theo di ngôn của chúa Trịnh Doanh, chúa muốn được chôn cùng một huyệt với bà tại xứ Thanh Hoa, nguyên quán của cả hai dòng họ. Tương truyền rằng khi quan tài chúa Trịnh Doanh được đưa đi, chúa Trịnh Sâm trông thấy bóng hình bà Chính phi ngồi thuyền xuôi dòng, tới gần thuyền tang thì nhập hẳn vào, không thấy đâu nữa. Chúa Trịnh Sâm khi ấy bèn lên bờ lạy tạ tống tiễn, về sau phong thụy hiệu cho bà là Trang Trinh.

Xét thân phận phụ nữ quyền quý trong xã hội xưa, được yêu thương trọn vẹn suốt cuộc đời như Đức Bà Vàng quả là hiếm thấy!

Sơn hà bị rạch đôi. Trịnh và Nguyễn mỗi bên giữ một mảnh non sông. Trong cuộc chiến nhằm nhất thống thiên hạ này, bạn sẽ chọn ai làm chân chúa?

Chia sẻ câu chuyện này

Thiết kế Trần Văn Hậu

Share