Nam Phương Thảo Mộc Trạng (南方草木狀) là cuốn sách tương truyền do Kê Hàm (嵇含) (266-306) viết vào đời nhà Tấn. Về vấn đề tác giả và niên đại sáng tác của tác phẩm này thực tế đến nay vẫn còn tranh cãi. Nguyên do là văn bản xưa nhất còn lưu trữ được thật ra là bản đời Nam Tống (1127-1279), và không có tên tác giả.
Việc xác định tác giả Kê Hàm là kết quả của quá trình nghiên cứu và tranh luận của nhiều học giả Trung Quốc. Một trong những bằng chứng nêu ra có thể kể đến như việc tác giả thường nhắc đến hai địa danh Giao Chỉ, Cửu Chân; những sự kiện, tác phẩm được đề cập trong sách chủ yếu có niên đại từ đời Tấn về trước;… Tuy nhiên, bỏ qua những vấn đề trên, bài viết dưới đây chủ yếu sẽ phân tích và suy luận các thông tin rút ra từ Nam Phương Thảo Mộc Trạng, trên cơ sở chấp nhận kết luận rằng đây thật sự là tác phẩm do Kê Hàm viết vào giai đoạn cuối thế kỷ thứ 3 – đầu thế kỷ thứ 4.
Sách Nam Phương Thảo Mộc Trạng có một mục ghi chép về Ích Trí Tử (益智子). Sách viết rằng từ cây Ích Trí, người ta thu hoạch được một loại hạt mùi rất thơm, có vị cay lẫn với năm vị khác. Các nguồn tiếng Việt cho biết, Ích Trí Tử tiếng Việt gọi là Riềng Lá Nhọn hoặc Riềng Thuốc, một loại cây thuộc họ gừng. Loại cây này ra quả, quả vỏ mỏng và dai, bên trong có chứa hạt, thường dùng làm thuốc.
Nhưng trong phần về Ích Trí Tử, tác giả còn đề cập đến một thông tin quan trọng hơn. Đó là vào năm Kiến An thứ 8 (203), thứ sử Trương Tân (张津) ở Giao châu từng dùng hạt này làm bánh tông (粽) dâng cho Tào Tháo. Tông là từ chỉ chung mọi loại bánh gạo nếp như bánh chưng, bánh tét, bánh ú,… với công thức chung thường thấy là một lớp gạo nếp bọc nhân bên trong, rồi đem chưng, luộc,… Như vậy, văn bản này là một trong những tài liệu xưa nhất ghi nhận sự tồn tại của một phiên bản của thứ chúng ta thường gọi là bánh chưng sau này.
Từ ghi chép trên, chúng ta rút ra một vài điều đáng chú ý:
Thứ nhất, sách cho biết rằng một phiên bản của bánh chưng đã tồn tại ở nước ta, trễ nhất là vào năm 203. Tuy nhiên, sách chỉ tập trung vào nguồn gốc bản xứ của hạt Riềng Thuốc, chứ không cho biết nguồn gốc của loại bánh này là từ người bản xứ hay người Hán. Tuy vậy, cách viết của sách cũng cho thấy rằng vào thời đại mà tác giả đang sống – tức vài thập niên sau sự kiện Trương Tân – loại bánh tông này phổ biến ở cả Trung Quốc đến mức sách không cần phải giải đáp bánh tông là bánh gì.
Điều này cho thấy, loại bánh này đã được sáng tạo và lan truyền không chỉ ở nước ta mà còn cả Trung Quốc trong một thời gian dài trước thế kỷ thứ 4, để khiến nó phổ biến đến mức trở thành một điều bình thường. Như vậy, khi nghiên cứu về lịch sử bánh chưng, một trong các đầu mối là bánh tông (粽), bao gồm tất cả những ghi chép sớm nhất của văn bản Trung Quốc về khái niệm này.
Thứ hai, sách không cho biết vào thời đại đó, bánh tông có hình dạng như thế nào (vuông; thanh tròn; khối tam giác;…).
Thứ ba, sách cho biết hạt Riềng Thuốc là một trong những nguyên liệu xưa nhất từng được sử dụng để làm loại bánh này, chứ không phải là đậu xanh hay thịt ba chỉ.
Thứ tư, sách phản ánh phần này khẩu vị của người Việt lẫn Trung Quốc trong giai đoạn đó. Trương Tân dùng hạt Riềng Thuốc làm bánh tông dâng cho Tào Tháo. Điều đó cho thấy trong nhận thức của ông ta, đây là một loại bánh ngon, mà chỉ cần kết hợp với loại hạt trên là đã đủ chất lượng để liệt vào hàng mỹ vị cung đình vào thời đó.