Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt!
Cổ nhân để lại chỉ một câu nói mà tựa như thiên văn vạn quyển răn dạy hậu thế nên sống biết trước biết sau, hành thiện tích đức, tránh làm chuyện xấu, bởi mọi sự đều được thiên nhãn xét soi, đèn trời tỏ rạng. Ví như mới hôm nay đọc báo xem đài, thấy vụ giết người kinh thiên động địa, tưởng chừng như không có kẽ hở, ấy vậy mà một hai ngày sau thì thủ phạm đã bị tóm với đầy đủ chứng cớ, đó là chỗ chính xác của pháp luật, khiến người dân an tâm.
Nhưng có ai thử hỏi, những cái vừa kể là do ngày nay với khoa học phát triển, kỹ thuật hình sự ngày càng hoàn thiện, chỉ một dấu vân tay, một giọt máu, một lời trăng trối thì mọi chuyện đều được khoa học làm sáng tỏ, còn những thế kỷ trước thì làm sao những kỳ án được phá giải? Trong khi trọng án thời nào cũng có đấy thôi. Thời này vậy, thời xưa thì thế nào?
Để trả lời câu hỏi này, hãy lật lại lịch sử một chút. Năm 711, tức năm Cảnh Long thứ hai, vua Lý Đán nhà Đường bên Trung Quốc đặt ra chức Án Sát Sứ, trực thuộc Trung ương, cử về địa phương xem xét hành vi của quan lại, có thể hiểu chức này tương tự như thanh tra của thời hiện đại. Trong các quận huyện địa phương, đất Việt Nam ngày ấy được gọi là quận Giao Chỉ, Án Sát Sứ cũng được hình thành tại nước ta. Đến năm Hồng Đức thứ 2, (thời vua Lê Thánh Tông, 1471), Vua chia cả nước ra làm mười ba Thừa Tuyên, mỗi Thừa Tuyên có một Án Sát Sứ, sau đó chức danh này không còn nữa. Mãi đến năm 1614, thời Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, Chúa đặt chức Ký Lục, chức năng và nhiệm vụ khá giống Án Sát. Đến thời Minh Mạng mới đổi tên lại là Án Sát Sứ, giao cho phụ trách việc xét xử án lớn, thanh tra các địa phương, đến thời Tự Đức thì được coi như một chức Tỉnh phó đối với tỉnh nhỏ.
Nói về những Án Sát nổi tiếng thời Nguyễn có rất nhiều, trong đó phải kể đến một Án Sát của tỉnh Vĩnh Long tên là Dương Quang Kiệt. Chuyện về vị quan nổi tiếng này cũng nhuốm màu liêu trai. Chuyện rằng, thân phụ của ông là Nho sinh ở trấn Thuận Hóa lưu lạc vào, tên gọi Dương Chính, vô cùng thông tuệ, học đâu nhớ đấy, gia cảnh cũng thuộc dạng trung lưu. Dương Chính năm mười bảy tuổi đã đỗ Tiến sĩ, vợ là Lưu thị nhất mực ngoan hiền, thương yêu gia đình chồng, rất mực cung kính. Nói vậy chẳng phải Dương tiên sinh quả là danh vọng đời người đều đã đạt được, chẳng hề có phiền não hay sao? E đó lại là chuyện khác. Mặc dù hai vợ chồng đã cố gắng nhưng vẫn không tài nào có con. Đến năm ba mươi hai tuổi vẫn vậy. Gia đình chạy chữa thuốc thang đủ cả, đến độ khí huyết của Chính thay đổi, mất đi năng lực nam giới, tình cảnh hầu như lâm vào tuyệt vọng.
Lưu thị thấy chồng đau khổ, hằng ngày vẫn tụng kinh niệm Phật, đi chùa cầu tự rồi làm phước đủ các kiểu, hy vọng trời xanh mủi lòng mà ban phước cho phận bạc. Một hôm vị phu nhân đi từ chùa ra, vô tình bị một ông lão mù đụng phải. Ông lão tuy trông có vẻ rách rưới, bốc mùi hôi thối nhưng khuôn mặt hết sức uy nghiêm đạo mạo, có điều làm phu nhân nhớ mãi đó là hai tròng mắt ông lão rỗng không. Bọn hầu thấy vậy định gông cổ ông rồi giải lên quan thì Dương phu nhân ngăn lại, la rầy đám hầu, nói là ổng mù thì làm gì có lỗi, đoạn quay sang hỏi han lão. Lão mù đó bèn hỏi phu nhân có bị làm sao không, lão hết sức áy náy. Phu nhân đáp không sao, vừa định quay bước đi thì nghe ổng gọi với lại, nói rằng:
– Lão phu bị mù, hàng ngày đi trên đường đều đếm bước chân mà biết mình đang ở nơi nào, nay đi tới đây biết là tới Cổ Lam Tự. Phu nhân đi viếng Cổ Lam Tự này, hẳn là muốn cầu con, biết đâu lão phu có thể chỉ cách.
Dương phu nhân bán tín bán nghi, nhưng nhìn mặt lão mù cảm giác như tiên thánh bất phàm, tự nhiên thấy có phần tin tưởng được, liền hỏi ngay cách đó thế nào. Ông lão lấy trong tay áo ra ba mảnh xương khô, dặn là giờ Mão ngày mai, đi về hướng Đông ba dặm sẽ thấy một cây chuối hột có ba tàu lá, bên dưới buộc một con chó mẹ đang cho con chó con có bộ lông màu tía bú, cứ để ba mẩu xương ấy ở kế bên rồi quay về nằm, ắt sẽ có hiệu nghiệm. Nói xong ông lão sấn bước đi tiếp, chân thoăn thoắt nhẹ như không, hệt như người sáng mắt, loáng cái đã mất tăm. Phu nhân về đem chuyện này kể lại cho chồng. Dương Chính nghe cũng nửa tin nửa ngờ, tuy nhiên đến nước này rồi, còn nước còn tát thôi, bèn nói vợ cứ làm vậy coi sao.
Hôm sau, Lưu thị làm theo lời ông lão dặn, đến lúc quay về nằm thì thấy từ phía cửa có một cái bóng nhỏ màu tía vụt chạy vào buồng, phóng lên phản chỗ bà đang nằm rồi chui tọt vào bụng bà, biến mất. Giật mình tỉnh dậy thì chỉ là giấc mơ, nhưng bà sực nhớ lại, không chừng gặp thần tiên gì đó chuyển hóa vật nuôi nhờ gia đình bà nuôi nấng. Quả nhiên sau đó ít lâu, vợ chồng bà nhận được tin vui. Chín tháng sau thì một bé trai kháu khỉnh chào đời, hai ông bà đặt tên là Dương Quang Kiệt.
Quang Kiệt nổi tiếng thông minh, lên ba đã viết chữ ngay hàng thẳng lối, nét chữ như rồng bay phượng múa, sáu bảy tuổi thì tứ thư ngũ kinh đã làu thông, dĩ nhiên sau này đi thi liền đỗ cao. Trong buổi yến tiệc, Vua đãi những người đỗ đạt, Quang Kiệt đối đáp lanh lẹ, kinh sử am tường, lại có nhãn quan suy luận hết sức đặc biệt khiến Vua khâm phục bội phần, liền lệnh cho người đúc lệnh bài làm bằng vàng và đồng đen, khắc bốn chữ Án Sát Kim Lệnh ban cho, phái về làm Án Sát tỉnh Vĩnh Long.
Tương truyền, đỉnh đầu ông có bốn chỏm tóc màu tía, là hiện thân của Tử Nghê (con Nghê màu tía), thú cưỡi của Thiên Nam Lão Quân thuộc Nam Hải. Mỗi khi xử những vụ án khó ông thường lấy tay vò búi tóc ấy, tự khắc tìm được cách phá án, trăm lần không sai, khắp nơi nức tiếng, giải được nhiều vụ trọng án, triều đình hết sức tin dùng. Tuy nhiên, càng về sau chốn quan trường càng làm ông thấy mệt mỏi nên đã cáo bệnh xin từ quan, vật quý trong nhà đều đem bán để làm từ thiện, chỉ giữ lại kim lệnh truyền thừa cho con cháu, sau đó cũng biệt tích khỏi thế sự, chẳng ai biết ông cùng gia đình đi đâu về đâu. Thế nhưng cứ mỗi lần xảy ra trọng án, dân chúng lại xôn xao khi thấy một người có búi tóc màu tía xuất hiện, để lại cách phá giải rồi lại biến mất, dân tình đồn đoán đó là hậu duệ của ông kế thừa được thiên tính.
Pháp vào xâm lược, nước nhà sinh loạn, dần chẳng còn ai nhớ đến huyền thoại Tứ Tử Mao đó nữa, cho đến những năm đầu thế kỷ 20…
Tại tổng Hải Bình, tỉnh Sa Đéc, đang rộ lên vụ kỳ án hết sức rùng rợn. Chỉ trong vòng bốn tháng đã có hơn hai chục thanh niên trai tráng mất tích. Cứ sau khi có một hộ lên báo người thân biến mất, độ vài ngày sau thì những mảnh xác của người mất tích lại xuất hiện. Xác họ bị chặt ra rồi đem vứt rải rác khắp nơi, tiếp đến thì mới thấy cái đầu. Điều này khiến dân làng hoang mang tột độ. Đó giờ chỉ nghe chuyện con nít hoặc trinh nữ bị bắt cóc nhằm luyện yêu thuật chứ chưa nghe chuyện bắt thanh niên trai tráng như vầy bao giờ.
Cai tổng Quỳnh cứ lôi mấy ông Hương chức lên hạch sách, hai ngày bốn cữ, rằng sao mãi chưa bắt được kẻ thủ ác. Thậm chí chuyện này làm tay Thống đốc hết sức bẽ mặt, bởi nhiệm kỳ của y sắp hết mà mọi chuyện bung bét ra thành thế này thì làm sao kỳ tới còn được tại nhiệm cơ chứ?
Hôm nay vẫn là một buổi hạch sách như vậy. Cai tổng Quỳnh đỏ mặt tía tai, đập bàn quát tháo ầm ĩ một thôi một hồi mới lệnh cho đám Hương chức, hạn trong ba ngày phải tìm ra được hung thủ, nếu không cho vào khám cả lũ.
Nghe đến đó đám Hương chức ông nào ông nấy mặt mày tái xanh, chỉ biết cúi đầu dạ vâng rồi lủi về thẳng. Cai tổng Quỳnh thấy đám Hương chức ra khỏi cổng thì quay sang nói đám hầu lui hết xuống nhà dưới rồi đi vô buồng. Tuy là ban ngày nhưng bên trong tối mờ mờ, chỉ có hai cây đèn cầy cháy gần tàn, cửa sổ đều đóng kín. Ông ta tới bên cái tủ quần áo bằng cây căm xe lên nước đen bóng, cửa tủ chạm trổ theo lối Tây Dương cực kỳ tinh xảo, nội riêng cái tủ này cũng đã là một gia tài đối với người thường, chưa kể đến mấy cái tủ trưng đồ cổ ngoạn của ổng. Cai tổng đẩy nhích tủ sang một bên, để lộ ra một đường hầm âm u như dẫn tới chốn hoàng tuyền. Ông đốt một cây đèn cầy rồi tiến vào trong, không quên sập cửa lại, cái tủ trở về vị trí bình thường, thế là thần không biết quỷ chẳng hay, nhìn từ ngoài làm sao biết được sau tủ có một mật đạo.
Đi xuống chừng ba mươi phiến đá thềm đục đẽo vuông vức được xếp thành một cầu thang có độ rộng cỡ một thước Tây, căn hầm cũng to như phòng ông ta ở bên trên hiện ra trước mắt. Dưới này đốt sẵn sáu cây đuốc bằng bùi nhùi khiến khói xông lên cay xè, một phần khói thoát qua những khe thông gió, rộng chừng ngón tay cái. Giữa phòng kê một cái bàn gỗ lấm lem dầu mỡ và còn có… máu. Trên đó đang trói một thanh niên chừng hai mươi hai, hai mươi ba tuổi còn đang bất tỉnh nhân sự. Trong góc phòng, bà Cai đang lầm rầm khấn vái bên bàn thờ, vật được thờ ở trển trông như thờ cái xác khô bị cụt đầu, nhỏ bằng đứa con nít. Cai Quỳnh hỏi vợ:
– Thằng này sao hoài vẫn chưa tỉnh, có bị trễ hạn không?
Bà Tổng lạnh lùng đáp:
– Trễ thì sắp rồi. Bà mẹ nó, kiếm riết mà không kiếm ra được cái xác nào hợp. Ông còn đứng đực ra đó làm gì, lo qua đây bắc lò thuốc với tui coi.
Hai vợ chồng loay hoay bắc cái nồi đất to tướng lên bếp, dùng thứ gì đó như khúc mía khuấy liên hồi đến khi nước trong nồi sệt lại thì một mùi hương bốc lên, thơm ngát nhưng tạo cảm giác ma mị khó tả. Bỗng nhiên phía sau vang lên giọng nói của cậu thanh niên tưởng như đang bất tỉnh nọ:
– Ai mà ngờ được người hối thúc Hương chức truy tìm thủ phạm lại là thủ phạm chớ.
Cai tổng Quỳnh hốt hoảng quay sang nhìn thì thấy cậu thanh niên đã ngồi dậy từ lúc nào, dây trói đều đứt cả, lão quát lên:
– Thằng này, mày là đứa nào?
Cậu thanh niên khịt mũi, tay cầm một mảnh kim loại khắc chữ Hán, nói:
– Ai đời phạm nhân mà lại dám hạch sách quan trên thế này?